c
ục mù lòa hay chết. Methanol được tiết ra từ từ ở ruột non khi nhóm
methyl c
ủa aspartame gặp enzyme chymotrypsin. Methanol phân hủy
thành axit formic và formaldehyde (ch
ất ướp lỏng) trong cơ thể. Theo
EPA, methanol “đ
ược coi là chất độc tích tụ do tốc độ bài tiết chậm một
khi nó đ
ược hấp thụ. Trong cơ thể, methanol được ô-xy hóa thành
formaldehyde và axit formic; c
ả hai chất chuyển hóa này đều độc.”
EPA khuy
ến cáo giới hạn mức tiêu thụ methanol là 7,8 milligam mỗi
ngày, nh
ưng một chai nước giải khát một lít chứa aspartame có hơn 50
mg methanol. B
ạn biết bao nhiêu người uống một lít nước ngọt mỗi
ngày? Ch
ết tiệt, tôi biết nhiều người uống hai hoặc ba lít mỗi ngày! Theo
m
ột báo cáo năm 1990 của Kathleen Nauss và
Robert Kavet t
ựa đề “The Toxicity of Inhaled Methanol Vapor” (Độc
tính c
ủa hơi methanol hít phải – xuất bản trên Critical Reviews in
Toxicology) thì ti
ếp xúc với methanol ở mức độ thấp nhưng lâu dài được
ghi nh
ận là gây đau đầu, choáng, buồn nôn, đãng trí, mờ mắt, tai ù, rối
lo
ạn tiêu hóa, suy nhược, chóng mặt, ớn lạnh, tê liệt, rối loạn hành vi,
m
ất ngủ, viêm dây thần kinh, hoa mắt, trầm cảm, đau tim, và viêm tụy.
Nh
ưng chẳng phải nhiều trái cây và rau cũng chứa một chút methanol
đó sao? Đúng, nh
ưng chúng cũng chứa một lượng lớn ethanol, tác động
nh
ư một tấm đệm và vô hiệu hóa methanol, theo đó ngăn ngừa sự chuyển
đ
ổi methanol thành formaldehyde. Trong aspartame không có đệm như
v
ậy.
Diketopiperazine (DKP) là m
ột sản phẩm phụ của quá trình chuyển
hóa aspartame và có liên quan đ
ến sự xuất hiện của các khối u não. Công
ty G.D. Searle đã ti
ến hành các thí nghiệm trên động vật về tính an toàn
c
ủa DKP. FDA đã phát hiện rất nhiều lỗi trong thí nghiệm, có cả “sai sót
khi biên chép, l
ẫn lộn động vật, động vật không cho thuốc lẫn với đã cho
thu
ốc, mất mẫu bệnh phẩm do cách xử lý không đúng”, và còn rất nhiều
l
ỗi khác. Những quy trình phòng thí nghiệm cẩu thả này có thể giải thích
cho vi
ệc các con vật thuộc cả nhóm thử nghiệm lẫn kiểm soát đều có u
não g
ấp 16 lần so với dự đoán trong các thí nghiệm với thời lượng này.
Aspartame đ
ược James Schlatter tình cờ phát hiện vào năm 1965, ông
là nhà hóa h
ọc tại Công ty Searle G.D. (Searle). Ông này đã liếm phải một
ít lo
ại thuốc chống loét mới dính ở các ngón tay và phát hiện ra vị ngọt
c
ủa aspartame. Eureka! Bán hóa chất này như một phụ gia thực phẩm cho
hàng trăm hàng tri
ệu người khỏe mạnh mỗi ngày có nghĩa là thu được