UNG THƯ - SỰ THẬT, HƯ CẤU VÀ GIAN LẬN - Trang 337

Hai năm sau, vào năm 1976, xu

ất phát từ sự phản đối của Olney, FDA

b

ắt đầu một cuộc điều tra những việc làm của phòng thí nghiệm Searle.

Cu

ộc điều tra đã phát hiện quy trình thử nghiệm không đủ chất lượng

c

ủa họ, đầy những dữ liệu thử nghiệm “chế tác” và không chính xác. Các

nhà đi

ều tra báo cáo rằng họ “chưa từng thấy điều gì tệ như thử nghiệm

c

ủa Searle.” Sau đó, vào năm 1977, lực lượng chuyên trách của chính phủ

l

ại phát hiện ra Searle đã làm sai lệch dữ liệu bằng cách trình nộp những

xét nghi

ệm máu không chính xác. Trong một nghiên cứu khác, việc xem

xét k

ỹ hơn đã hé lộ các khối u tử cung phát triển ở rất nhiều các con vật

th

ử nghiệm, và Searle thừa nhận những khối u này có liên quan đến việc

tiêu th

ụ aspartame. FDA chính thức yêu cầu Văn phòng Luật sư Mỹ tiến

hành t

ố tụng ở cấp đại bồi thẩm đoàn để điều tra xem có nên đệ trình

các cáo tr

ạng chống lại Searle do cố ý làm sai kết quả và “che giấu dữ

ki

ện thực tế và lập các báo cáo sai sự thật” trong kiểm tra an toàn

aspartame hay không.

Trong khi b

ồi thẩm đoàn tiến hành điều tra, Sidley & Austin – công ty

lu

ật đại diện cho Searle đã bắt đầu đàm phán với luật sư Mỹ phụ trách

đi

ều tra là Samuel Skinner. Tháng 7 năm 1977, Skinner từ chức và về đầu

quân cho công ty lu

ật của Searle. Hành động từ chức của Skinner đã làm

đình tr

ệ quá trình điều tra quá lâu, khiến cho thời hạn thực hiện tố quyền

h

ết hiệu lực. Cuối cùng, việc điều tra bị bỏ dở.

Năm 1979, FDA đã thành l

ập một Hội đồng Điều tra Công khai

(Public Board of Inquiry – PBOI) đ

ể đưa ra phán quyết về các vấn đề an

toàn xung quanh aspartame. M

ột năm sau đó, PBOI kết luận đối với

aspartame, không nên cho phép trì hoãn lâu h

ơn nữa hoạt động điều tra về

các kh

ối u não ở động vật, và dựa trên những thông tin ít ỏi có được,

PBOI ngăn c

ấm tiếp thị aspartame cho đến khi các nghiên cứu về các

kh

ối u được giải thích rõ ràng. Trừ khi FDA phủ quyết hội đồng, vấn đề

s

ẽ được khép lại. Nhưng năm 1980, Ronald Reagan được bầu làm Tổng

th

ống Mỹ, và nhóm chuyển giao của ông có Donald Rumsfeld – CEO của

G. D. Searle. Theo m

ột cựu nhân viên bán hàng của G.D. Searle là Patty

Wood-Allott, Rumsfeld đã nói v

ới đội bán hàng của ông rằng, nếu cần

thi

ết “ông ấy sẽ viện đến tất cả những người mang ơn mình và rằng

không có v

ấn đề gì, ông sẽ đảm bảo aspartame được phê duyệt trong

năm đó” (Gordon, 1987). Không có gì ng

ạc nhiên, nhóm chuyển giao chọn

bác sĩ Arthur Hull Hayes Jr. làm

ủy viên mới của FDA. Theo nhiều mô tả,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.