chủ nhà giải thích với ông "trường hợp" của tôi, ông liền đồng ý ngay lập
tức:
- Nếu điều đó giúp ích gì được cho cô, cô có thể có gian phòng ấy…
Bà chủ nhà đã không nói thêm cái chữ mà tôi sợ hơn hết, bà đã không nói:
tạm thời.
Ông bà chủ nhà hứa sẽ giao chìa khóa phòng cho tôi vào ngày mai và khi từ
giã, tôi có cảm giác rằng cái áo măng tô mùa đông của tôi trở thành chật
hẹp, rằng tôi được chắp cánh bay bổng với niềm hạnh phúc lạ lùng ấy.
Nằm trên giường, khi tôi nghe tiếng ríu rít vĩnh biệt của những con chuột
cống trong hành lang, tôi nhớ lại một câu mà tôi đã nghe một bà gác cổng
giận dữ thốt ra "Bọn sinh viên ấy, chúng sống một cuộc đời Vadrouille!"
Tôi không biết chữ Vadrouille nghĩa là gì. Tôi đứng dậy và bật đèn lên, tra
tự điển. Vadrouille:
Chổi bằng sơ len dùng để quét tàu
cuộc đi chơi lang thang, tìm thú ăn chơi (nghĩa bóng)
Tôi nằm xuống giường để ngủ lại, và nóng lòng chờ đợi đến lúc có thể báo
cho Georges biết cái tin mừng tôi đã thuê được phòng.
Căn phòng ở lầu tám thật tuyệt vời và tôi đã don đến ở đó vào một ngày
tháng Hai trời nắng tốt. Georges không ngạc nhiên một chút nào về sự
thành công của tôi, anh nói:
- Em luôn luôn thành công kh iem muốn một điều gì.
Sự tin cậy hoàn toàn vào khả năng ấy của tôi làm cho tôi đâm ra lo sợ về
khả năng của anh. Càng lúc tôi càng bị ám ảnh hơn với cái ý nghĩ rằng tôi
phải làm cho anh thay đổi cái thái độ ỷ lại ấy đi mới được. Tôi nôn nóng
chờ đợi lúc anh chín chắn, già dặn hơn. Anh có những quan niệm cứng
nhắc về cuộc đời.
Anh nói với giọng rất khinh bỉ nghề làm chính trị, một nghề mà gia đình
anh đã theo đuổi từ mấy thế hệ nay. Văn học cũng làm cho anh chán nản và
khi tôi gợi lại thi phẩm Baudelaire, anh lại nói với tôi về động cơ, máy ép,
máy hơi nước. Tôi có nghe người ta nói rằng những người có bản tính khác