mặt cảm động của anh, nên tôi đành im lặng.
Bàn tay trái của tôi trong bàn tay anh, còn bàn tay mặt thì tôi đặt lên trên
cái áo măng tô của tôi, chúng tôi đi ăn sáng.
Vị linh mục già, với nụ cười hiền lành và vô ngã, đã cho chúng tôi địa chỉ
của một trong những người bạn thân của ngài, một linh mục tại một làng
nhỏ gần biên giới nước Áo.
Mới tang tảng sáng chúng tôi đã đáp chuyến tàu địa phương đưa chúng tôi
đến ngôi làng đang ngập nước mưa. Chúng tôi băng qua con đường chính
và đi vào một con đường hẻm quanh co theo sườn núi. Ngôi làng nằm sâu
trong cái thung lũng nhỏ ấy, có lẽ cũng ít có ánh mặt trời ngay cả vào tháng
Bảy. Chúng tôi cứ đi theo cái bản đồ mà vị linh mục già đã vẽ trên nửa tờ
giấy để chúng tôi khỏi phải hỏi thăm đường với dân trong làng.
Tôi quay về phía Georges.
- Anh có thấy trong những hòn núi kia có cái gì giống như là một con
đường không?
Anh nhìn chung quanh như thuyền trưởng một con tàu và lắc đầu:
- Anh không tưởng tượng được bằng cách nào vị cha xứ ở đây sẽ đưa
chúng tôi vượt qua biên giới được.
Áo măng tô của chúng tôi càng lúc càng nặng hơn vì nước mưa và chúng
tôi đứng lại trước một ngôi nhà nhỏ được chăm sóc chu đáo bên cạnh một
con đường hẹp và dốc. Georges kéo sợi dây của cái chuông nhỏ trước cửa.
Tiếng chuông mau chóng được át đi bởi cơn mưa tầm tã. Nhìn về phía
hòn núi dựng đứng ngay ở phía sau ngôi nhà, tôi thấy một con suối đầy bọt
chảy ào ào từ trên cao xuống thung lũng.
Cửa mở một cách đột ngột, một người đàn bà tóc hoa râm đứng nơi ngưỡng
cửa có vẻ hiền lành và ngạc nhiên vì sao chúng tôi đến tận nơi này.
- Chúng tôi có thể gặp cha xứ không, thưa bà? – Georges hỏi và vì anh
nói tiếng Đức rất thành thạo nên đã xua tan được sự phân vân của bà quản
gia.
Không cởi áo măng tô ra, chúng tôi bước vào trong phòng ăn, nơi đó một
bộ đồ ăn đã được dọn sẵn và một bình cà phê lớn bằng đất nung.
- Các người hãy ngồi xuống đi – bà quản gia bảo với chúng tôi - Cha