trốn còn hơn là mạo hiểm ở lại trên tàu để cuối cùng đi vào một trại tập
trung ở Sibéri.
Sau khi ngừng lại một lát để bàn bạc, tất cả đoàn chúng tôi quyết định đi bộ
đến Baja. Một người nhà quê cho chúng tôi biết Baja cách đây năm mươi
kilô mét.
Chúng tôi phải mất ba ngày mới đến đó được. Đêm đầu tiên, người nông
dân cho chúng tôi ở trong nhà ông ta, hai đêm sau người ta cho chúng tôi ở
trong chuồng bò. Người ta còn cho chúng tôi bánh mì và sữa. Khi chúng tôi
đến Baja thì đã bảy giờ tôi. Một nhân viên hoả xa cho chúng tôi biết những
khả năng vượt sông Danube để qua bờ bên kia. Ông ta nói:
- một chuyến tàu nhà binh Bungari sẽ rời ga trong nửa giờ nữa. Nó
chở súng đại bác trên những toa trần. Các người có thể leo lên các toa ấy.
Đó là cơ may duy nhất của các người, vì cầu nổi chỉ được dùng cho các
chuyến tàu nhà binh.
Sau khi cảm ơn nhân viên hoả xa ấy, chúng tôi quan sát chiếc tàu điện nơi
nhà ga. Thật là một quang cảnh đầy ấn tượng, vì hình như các bánh xe lửa
không thể chịu đựng nổi trọng lượng của những khẩu đại bác to tướng. Một
người lính Bungari vác súng đi bách bộ dọc theo ke ga. Bố tôi trình bày
bằng tiếng Đức với người lính ấy rằng chúng tôi đã cuốc bộ trong năm
ngày trên một chặng đường, nếu đi tàu chỉ cần năm giờ. Và bây giờ nếu
chúng tôi không thể về nhà chúng tôi ở bờ bên kia sông, chúng tôi đành
phải chết, vì không còn tiền và cũng không còn đủ sức để cuốc bộ trên con
đường cũ theo chiều ngược lại.
Người lính Bungari ấy hiểu và suy nghĩ rất lâu. Đó là một chàng thanh niên
nhiều lắm là hai mươi tuổi, nhưng lưng anh ta đã hơi còng xuống như dưới
sức nặng quá chừng mà định mệnh đã bắt buộc thế hệ của anh phải chịu
đựng.
Anh ta lại nhìn chúng tôi rất kỹ lưỡng và ra dấu cho chúng tôi leo lên trên
các toa.
Bố tôi hỏi:
- Anh cần gì chúng tôi xin biếu để đền ơn anh?
- Không cần gì hết – anh ta nói một cách dịu dàng và giúp bố tôi, mẹ