các minh chứng. Chúng tôi gọi đây là thời kì giao lưu văn hóa Lĩnh Nam –
Hoa Hạ-Hán.
Năm 221 trCN, Tần diệt Sở, thống nhất Trung Nguyên, bắt đầu mưu toan
chinh phục Lĩnh Nam. Mở đầu là trận đánh năm 218 trCN, giữa quân Tần và
quân Âu Việt phía nam dãy Việt Thành Lĩnh (Quế Lâm, Quảng Tây). Bốn năm
sau, Âu Việt thất thủ, quân Tần do Đồ úy Thư và Phó tướng Triệu Đà làm chủ
Lĩnh Nam, chia phía bắc và phía đông vùng này ra ba khu vực quản lý. Vùng
đất Âu Việt đặt quận Quế Lâm, vùng Nam Việt đặt quận Nam Hải, vùng Đông
Lạc Việt đặt Tượng Quận. Đồng bằng sông Hồng-sông Mã nằm ngoài tầm
kiểm soát, đang chuyển từ nhà nước Văn Lang sang Âu Lạc cùng với sự suy
thoái dần của văn minh Đông Sơn.
Đồ úy Thư qua đời, Triệu Đà nhân cơ hội chiếm luôn hai quận còn lại (Quế
Lâm, Tượng Quận) lập nước Nam Việt, đặt thủ đô Phiên Ngung, xây dựng trên
cơ sở của văn hóa Nam Việt. Bằng mưu kế, nước Nam Việt thu phục Âu Lạc
của An Dương Vương. Triệu Đà tự xưng “Nam man chi trưởng” (Nam Man
đại trưởng lão) và chủ trương Việt hóa phong tục Nam Việt. Động thái này
được đánh giá là phản ứng tranh chấp giữa văn hóa Bách Việt bản địa và văn
hóa Hán đang du nhập ngày càng ồ ạt. Năm 111 trCN, nhà nước Nam Việt mất
vào tay Hán Vũ Đế. Đây cũng là thời Hán Nho hình thành ở Trung Nguyên.
Dưới chính sách đồng hóa mạnh mẽ, văn hóa Lĩnh Nam bắt đầu một thời kì
mới: thời kì hòa nhập văn hóa Hán.
– Thời kì hòa nhập vào văn hóa Hán kéo dài từ thời Hán Vũ Đế nắm quyền
kiểm soát Lĩnh Nam và bắt đầu chính sách Hán hóa gắt gao từ khi Nam Việt
mất cho đến trung kì thuộc Đường. Thời thuộc Hán, toàn Lĩnh Nam chia ra hai
châu là Giao Châu và Quảng Châu, bên dưới lại chia tiếp thành nhiều quận, cắt
cử các Thái thú cai quản. Chính sách Hán hóa nghiêm khắc đã đẩy văn hóa
Bách Việt ở Lĩnh Nam vào một tình thế nguy cấp, cuối cùng nổ ra sự kiện khởi
nghĩa Hai Bà Trưng năm 39. Cuộc khởi nghĩa thất bại năm 43, nhà Đông Hán
lấy cớ dẹp loạn thắt chặt quản lý. Văn hóa Lĩnh Nam dần dà lấn sâu vào quá
trình hòa nhập với văn hóa Hán ở các cấp độ khác nhau.