Nhận định chung của các tác giả Smith R.B., Watson W. [1979: 11]; Bellwood P.S. [1979: 180, 189];
Ambra Calò [2009: 70, 82].
Các dãy núi hình vòng cung vùng Việt Bắc nước ta còn được gọi là “Tiểu Ngũ Lĩnh” áng ngữ phía
đông bắc, vô hình ngăn cách đồng bằng sông Hồng-sông Mã với phần còn lại của Lĩnh Nam.
Giới học giả Trung Quốc cho rằng người tiền sử ở Đài Loan vốn xuất phát từ vùng Mân Nam ở Phúc
Kiến, cụ thể là “người Đông Sơn” (
东山人), “người Thanh Lưu” (清流人) ở Chương Châu, Phúc Kiến.
Theo đó, khoảng 1, 5 vạn năm trước, eo biển Đài Loan còn là đất liền, và từ 6 vạn năm trước đã có người
tiền sử sinh sống ở đất Đài Loan [Vương Văn Quang 2007: 16].
Thuật ngữ của Nguyễn Duy Hinh [2004].
Dân gian Quảng Đông còn lưu lại ký ức về khu phố Châu Cơ hương (
珠玑巷, Ju Gei Hong) phía bắc
Quảng Đông, ngay bên dưới ải Mai Quan, phía nam Ngũ Lĩnh. Thời Hán, đây là trạm dịch, đến thời
Đường, di dân Hán di cư vào lập phố tạm cư, sau phân tán xuống đồng bằng qua hệ thống sông Bắc
Giang, sông Tây Giang [tư liệu điền dã 2008].
Hà Văn Tấn [1969: 16-27] xác định hoa văn gốm Phùng Nguyên theo (1) kiểu đối xứng gương (đối
xứng lưỡng trắc), (2) kiểu đối xứng trục (đối xứng quay), và (3) kiểu đối xứng tịnh tiến.
Xuất bản lần đầu 1971, do An Việt San Jose tái bản lần thứ nhất.
Tuy nhiên, tác giả đã không phân tích cụ thể để minh chứng. Tác giả Phạm Đức Dương [2000: 83]
phân tích các vành hoa văn trên mặt trống đồng, tổng cộng có 16 vành, bao gồm vành 1-5 biểu trưng cho
nguyên khí của trời, vành 6-10 biểu trưng cho nhân sinh cho nên có các hình tượng chim, hươu, người,
trong khi các vảnh 11 đến 16 biểu trưng cho nguyên khí của đất.
Chuyện quả bầu phổ biến ở khắp Đông Nam Á. Hiện đã tìm thấy 130 dị bản, có thể phần thành ba
mô típ chính: bầu-mẹ; bầu-thuyền; bầu-con (theo Nguyễn Tấn Đắc) [Phạm Đức Dương 2000: 50]
Theo phỏng đoán của Nguyễn Duy Hinh [2004: 427]
Ở đây cần có sự phân biệt tính cộng đồng trong liên kết dòng họ cùng huyết thống và tính cộng đồng
trong liên kết làng xã không lấy huyết thống làm tiêu chí.
Theo khảo cứu của Eberhard W [1968: 316-317]; Ruey Yi-fu [1969]; Pulleyblank E.G. [1983: 434];
An Chí Mẫn [1999: 293 ].
Theo Charles Higham [2002], thành Cổ Loa được xây dựng cùng thời và cùng phong cách với các
thành đắp đất dọc thung lũng sông Mun (Thái Lan), nhất là các thành Noen U Loke, thành Ban Chiang
Hian [xem thêm Tạ Đức 2005]. Ngày nay ở Cổ Loa còn lại ba vòng thành đất: Thành Ngoài (8km),