là chống lại lực hấp dẫn bên trong mô hình của Einstein, giữ cho vũ trụ cân
bằng, kháng cự xu hướng tự nhiên của hấp dẫn là kéo toàn bộ vũ trụ co lại
thành một khối khổng lồ. Bằng cách này, Einstein sáng chế một vũ trụ chẳng
giãn nở ra cũng chẳng co rút lại, nhất quán với hình dung của mọi người thời
ấy.
Nhà vật lý học người Nga Alexander Friedmann về sau chứng minh
bằng toán học rằng vũ trụ của Einstein quả thật cân bằng, nhưng ở một trạng
thái bấp bênh, không ổn định. Như một quả bóng nằm trên đỉnh ngọn đồi,
chỉ chờ một cú hích khẽ khàng nhất là sẽ lăn xuống theo hướng này hay
hướng khác, hoặc như chiếc bút chì đứng thăng bằng trên đầu chì đã vuốt
nhọn, vũ trụ của Einstein nằm cheo leo giữa một bên là trạng thái giãn nở và
một bên là sự đổ sụp hoàn toàn. Hơn nữa, lý thuyết của Einstein còn mới, và
là một thứ gì đó không trở thành hiện thực chỉ vì ta đặt cho nó cái tên –
Einstein biết rằng lambda, trong vai trò một lực hấp dẫn âm của tự nhiên,
không có lực tương ứng trong vũ trụ vật lý.
Thuyết tương đối tổng quát của Einstein thoát ly triệt để khỏi mọi tư
duy trước đấy về sức hút của lực hấp dẫn. Thay vì bằng lòng với quan niệm
của Sir Isaac Newton xem lực hấp dẫn là thứ tác-động-từ-xa ma quái (một
kết luận mà bản thân Newton cũng thấy khó chịu), GR lại xem tương tác hấp
dẫn là phản ứng của khối lượng trước sự uốn cong cục bộ của không gian và
thời gian gây ra bởi một khối lượng hay một trường năng lượng nào khác.
Nói cách khác, sự tập trung khối lượng gây biến dạng - đúng hơn, gầy hố
trũng - trên kết cấu không gian và thời gian. Những biến dạng này hướng
dẫn khối lượng di chuyển dọc theo
ta, chúng trông như những đường đi uốn cong mà ta gọi là quỹ đạo. Nhà vật
lý lý thuyết người Mỹ John Archibald Wheeler phát biểu về nó chuẩn nhất
khi tóm gọn khái niệm của Einstein: “Vật chất bảo không gian uốn cong thế
nào; không gian chỉ vật chất di chuyển ra sao.”
Nói cho cùng, thuyết tương đối tổng quát miêu tả hai phiên bản hấp
dẫn: loại quen thuộc, như sức hút giữa Trái Đất và quả bóng bị ném lên trời,
hay giữa Mặt Trời và các hành tinh. Nó cũng dự đoán một áp suất phản hấp