vênh giữa tiên đoán của mô hình với cách mọi sự diễn biến trong vũ trụ
thực. Đấy là dấu hiệu đầu tiên để nhà lý thuyết quay về điểm xuất phát, điều
chỉnh mô hình cũ hoặc tạo ra một cái mới.
Một trong những mô hình lý thuyết mạnh nhất và vươn xa nhất từng
được sáng chế, mà các trang trước đã giới thiệu qua, là thuyết tương đối
tổng quát (general theory of relativity) của Einstein – các chuyên gia lười
nhác thường gọi tắt nó là GR. Được công bố năm 1916, GR phác ra những
chi tiết toán học về cách vạn vật trong vũ trụ di chuyển dưới tác dụng của
lực hấp dẫn. Cứ vài năm, các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm lại chế
thêm nhiều thí nghiệm tỉ mỉ hòng kiểm tra lý thuyết này, để rồi mở rộng hơn
phạm vi đúng đắn của nó. Trong ví dụ gần đây nhất vào năm 2016, ví dụ
chứng tỏ Einstein đã trao tặng chúng ta tri thức tự nhiên đáng kinh ngạc,
sóng hấp dẫn đã được phát hiện bởi một đài quan trắc được thiết kế đặc biệt
dành riêng cho mục đích ấy
. Sóng này, do Einstein dự đoán, lăn tăn di
chuyển với tốc độ ánh sáng qua kết cấu không-thời gian, và nó được tạo ra
từ các nhiễu loạn hấp dẫn mãnh liệt, chẳng hạn từ sự va chạm của hai lỗ đen.
Và đó chính xác là những gì ta quan sát được. Sóng hấp dẫn trong lần
phát hiện đầu tiên được phát ra từ một vụ va chạm của các hố đen trong một
thiên hà cách ta 1,3 tỉ năm ánh sáng, vào cái thời mà Trái Đất còn đầy rẫy
những sinh vật đơn bào đơn giản. Khi gợn sóng di chuyển qua không gian
theo mọi hướng, Trái Đất đã, sau khi trải qua thêm 800 triệu năm nữa, tiến
hóa lên dạng sống phức tạp, bao gồm hoa, khủng long và những loài biết
bay, cũng như một nhánh các động vật có xương sống gọi là động vật có vú.
Trong số động vật có vú, một nhánh nhỏ sẽ phát triển thùy trán, kèm theo đó
là biết suy nghĩ phức tạp. Ta gọi chúng là linh trưởng. Một nhánh riêng của
bộ linh trưởng đột biến về gien cho phép có khả năng nói, và nhánh ấy –
Homo Sapiens – sẽ phát minh ra nào là nông nghiệp, nào là văn minh, triết
học, nghệ thuật và khoa học, tất cả chỉ trong vòng 10.000 năm vừa qua. Sau
rốt, một trong những nhà khoa học của loài này vào thế kỷ 20 sẽ nảy ra
thuyết tương đối trong đầu, rồi dự đoán tồn tại của sóng hấp dẫn. Một thế kỷ
sau, các công nghệ đủ sức để nhìn thấy các sóng này cuối cùng cũng bắt kịp