cơ phát triển kinh tế của người châu Phi sụp đổ, tất cả những tiến bộ đạt
được trong 50 năm trước đó đều bị đảo ngược. Họ từ bỏ cái cày và quay trở
lại dùng xẻng để làm ruộng - nếu họ còn có cơ hội đó. Nhưng thông thường
thì họ chỉ là nguồn lao động rẻ tiền, theo đúng dự tính ban đầu của kế
hoạch tạo ra vùng đất “Quê hương”.
Không những động cơ kinh tế bị phá bỏ mà ngay cả những thay đổi
chính trị đã diễn ra trước đó cũng bị đảo ngược. Quyền lực của các tù
trưởng và giới cai trị truyền thống, vốn đã suy giảm trước đó, được củng cố
và gia tăng, bởi vì một phần trong dự án tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt là
xóa bỏ quyền tư hữu đất. Vì vậy quyền kiểm soát đất đai của các tù trưởng
được tái lập. Những biện pháp này lên đến đỉnh điểm vào năm 1951, khi
chính phủ ban hành Đạo luật Chính quyền Bantu. Vào thời điểm năm 1940,
G. Findlay đã sớm nhận ra bản chất của vấn đề một cách hoàn toàn chính
xác:
Quyền sở hữu đất đai tập thể theo bộ tộc bảo đảm rằng đất sẽ chẳng
bao giờ được canh tác một cách đúng đắn và sẽ chẳng bao giờ thật sự thuộc
về người bản xứ. Để có sức lao động rẻ thì cần phải có chỗ sinh con đẻ cái
thật rẻ, và vì vậy người châu Phi được cấp cho vùng đất ấy với cái giá quá
đắt.
Việc tước đoạt đất khỏi tay người nông dân châu Phi dẫn đến sự nghèo
đói khắp nơi. Nó không những tạo ra cơ sở thể chế cho một nền kinh tế lạc
hậu, mà còn tạo ra cả những người dân đói nghèo để phục vụ nền kinh tế
ấy.
Những bằng chứng có được cho thấy có sự đảo ngược mức sống trong
khu “Quê hương” sau khi Luật Đất đai cho người bản xứ được ban hành
năm 1913. Hai khu vực Transkei và Ciskei bước vào giai đoạn kinh tế suy
thoái kéo dài. Hồ sơ tuyển dụng của các công ty khai thác vàng do sử gia
Francis Wilson thu thập cho thấy sự suy giảm xuất hiện trong toàn bộ nền
kinh tế của Nam Phi. Theo sau Luật Đất đai cho người bản xứ và những