pháp Anh. Và chẳng bao lâu sau, Úc trở nên khác với Anh cả về luật hình
sự và luật dân sự cũng như về nhiều thể chế kinh tế và chính trị khác.
Thuộc địa lưu đày New South Wales thoạt đầu bao gồm những kẻ bị
kết án và những người gác tù, chủ yếu là binh sĩ. Mãi đến những năm 1820
vẫn chưa có nhiều “người định cư tự do” tại Úc; và việc đưa tội phạm đến
đây mặc dù đã chấm dứt từ năm 1840 ở New South Wales, nhưng vẫn tiếp
diễn cho đến năm 1868 ở Tây Úc. Các tội phạm phải làm “những công việc
bắt buộc”, một cách gọi khác của lao động cưỡng bức, và những người
canh gác họ dự định kiếm tiền từ công việc này. Thoạt đầu, các tội phạm
không được trả công lao động mà chỉ được cung cấp thực phẩm. Lính gác
sẽ chiếm giữ những gì họ sản xuất ra. Nhưng cũng hệt như hệ thống mà
Công ty Virginia thử nghiệm ở Jamestown, hệ thống này vận hành không
trôi chảy lắm, vì không có động cơ khuyến khích các tội phạm làm việc tốt
và chăm chỉ. Họ bị đánh bằng roi hoặc bị trục xuất đến đảo Norfolk ở Thái
Bình Dương cách hơn 1.000 dặm (1.609 km) về phía đông của Úc, với diện
tích chỉ có 13 dặm vuông (33,7 km
2
). Nhưng vì việc trục xuất hay đánh đập
đều không mang lại kết quả, phương án khác là tạo ra các động cơ khuyến
khích. Đây không phải là một ý tưởng tự nhiên đối với các binh sĩ và những
người gác tù. Tội phạm vẫn là tội phạm, và người ta quen cho rằng họ
không có quyền bán sức lao động hay sở hữu tài sản. Nhưng không có ai
khác để làm việc ở Úc. Lẽ dĩ nhiên, ở Úc cũng có khoảng một triệu thổ dân
vào thời điểm hình thành thuộc địa New South Wales, nhưng họ sống rải
rác trên một lục địa rộng lớn, và vì vậy không đủ để xây dựng một nền kinh
tế dựa vào việc bóc lột sức lao động của họ. Không có phương án theo kiểu
châu Mỹ La-tinh ở Úc. Vì thế, những người cai tù bước vào một lộ trình mà
cuối cùng sẽ dẫn đến những thể chế thậm chí còn có tính dung hợp hơn so
với ở Anh. Các tội phạm được giao một số nhiệm vụ để làm, và nếu họ có
dư thời gian, họ có thể làm việc cho chính mình và được phép bán những gì
họ sản xuất ra.