rơi không lúc nào ngớt suốt chập tối và suốt đêm.
Đến bốn giờ rưỡi sáng, các hành khách họp nhau trong sâu lữ quán
Normăngđi để lên xe
Họ đều còn ngái ngủ, và rét run cầm cập dưới làn chăn mềm.Trong
đêm tối họ không trông thấy rõ nhau, và mớ quần áo rét nặng, mặc lồng
mấy lớp, làm cho tất cả những thân hình kia chẳng khác gì những cha cố
bụng phệ, mặc áo thầy tu dài thượt. Nhưng hai người đàn ông nhận ra nhau,
một người thứ ba đến gần họ, và họ trò chuyện: “Tôi đem nhà tôi theo, một
người nói. –Tôi cũng thế, -Cả tôi cũng vậy”. Người thứ nhất nói thêm:
“Chúng tôi sẽ không trở về Ruăng làm gì, và nếu quân Phổ đến gần Lơ
Havrơ thì chúng tôi sẽ sang Anh”. Tất cả đều có những ý định như nhau, vì
tính chất họ giống nhau.
Tuy nhiên không thấy người ta thắng xe. Thỉnh thoảng một chiếc đèn
kính nhỏ do một bác mã phu xách, ló ra ngoài khuôn cửa tối om để rồi lại
biến ngay vào trong một cửa khác. Tiếng chân ngựa giậm xuống đất, nghe
êm đi vì có lớp phân ổ lót chuồng và ở cuối ngôi nhà có tiếng người nói với
súc vật, vừa nói vừa rủa. Một tiếng nhạc ngựa nhè nhẹ báo hiệu người ta
đang soạn yên cương, không mấy chốc thứ tiếng nho nhỏ ấy rung lên rõ và
rền nhịp theo cử động của con vật, đôi khi ngừng lại, rồi lại dội lên đột
ngột, kèm theo là tiếng móng sắt ngựa nện xuống đất lộp cộp.
Cánh cửa bỗng nhiên đóng sập lại. Mọi tiếng động đều im bặt. Mấy
người thị dân rét cống không trò chuyện nữa: họ đứng yên, người cứng đờ.
Một màn bông tuyết trắng mịt mù óng ánh không ngừng trong khi rơi
xuống đất, xóa các hình thù, rắc lên mọi vật một lớp bọt băng, và trong cái
im lặng mênh mông của thành phố yêm tĩnh, chìm đắm trong mùa đông,
chỉ còn nghe thấy cái thứ tiếng lao xao mơ hồ và chơi vơi của tuyết rơi,
không biết gọi đó là gì cho được, một cảm giác đúng hơn làm một tiếng