156
Tủ sách Nuôi con – http://sachx.com
Tay chân lạnh giá.
Da đổi sắc, bầm bầm, môi tái tím.
Đái ít, khát nước nhiều.
CHÚ Ý:
Những năm gần đây, SXH ngày càng nhiều ở thanh thiếu niên và người lớn.
Tuy nhiên ở người lớn, bệnh diễn tiến nhẹ hơn ở trẻ em, ít vào sốc hơn. Các dấu
hiệu xuất huyết thấy nhiều ở da, niêm kết mạc mắt, chảy máu cam, rong kinh.
Không được mất cảnh giác. Phải khám và điều trị ở y tế.
Chương 51. Viêm gan siêu vi
T
rên thế giới có khoảng 300 triệu người lành mang virus viêm gan siêu vi B,
đặc biệt có những vùng có tỷ lệ bệnh rất cao như Trung Quốc, các nước Đông Nam
Á và Phi châu nhiệt đớt: tỷ lệ người mang mầm bệnh từ 8 đến 15%, và người có
kháng thể, tức đã nhiễm bệnh và đã có sức đề kháng tốt từ 70 đến 95%.
Có nhiều loại siêu vi gây viêm gan: A, B, C, D, E... trong đó viêm gan siêu vi B
có tỷ lệ mắc bệnh cao và có khả năng gây biến chứng xơ gan, ung thư gan nên
được quan tâm nhiều nhất. Viêm gan siêu vi A lây theo đường ăn uống. Tình trạng
ăn uống bừa bãi, thiếu vệ sinh ở nhiều nơi hiện nay, với quán nhậu, quán bia khắp
hang cùng nhõ hẻm là cơ hội cho Viêm gan siêu vi A phát triển. Còn Viêm gan siêu
vi B thì lây qua đường máu, đường tình dục, và từ mẹ sang con trong lúc mang thai,
sinh đẻ... Thói quen thích chích thuốc, châm cứu, cắt lể, xâm mình, xỏ lỗ tai, làm
móng tay... của chúng ta là cơ hội cho virus B lây lan nếu không vô trùng tuyệt đối.
Truyền máu, mổ xẻ, chăm sóc y tế không vô trùng cũng dễ bị. Do đó ta biết tại sao
nhân viên y tế mắc bệnh này khá nhiều. Tiêm chích ma túy cũng là đường lây chính
của siêu vi B. Đường lây tình dục còn quan trọng hơn. Tình trạng mại dâm phát triển
cùng với sự quan hệ tình dục dễ dãi mà không được bảo vệ hiện nay làm gia tăng
nhanh chóng số người bị nhiễm Viêm gan siêu vi B (VGSVB). Có thể nói, VGSVB
lây truyền giống như HIV/AIDS, như vậy khi phòng tránh AIDS tốt cũng chính là
phòng tránh VGSVB.
Đường lây đã xác định rõ nên ta cũng biết rõ nhóm nguy cơ cao để có biện pháp
phòng ngừa. Đó là những người tiêm chính ma túy, mại dâm, nhân viên y tế, bệnh
nhân thường phải truyền máu và trẻ sơ sinh. Khác với AIDS, VGSVB hiện nay đã có
thuốc chủng ngừa.
Diễn tiến của VGSVB cũng khác với AIDS. Trong VGSVB thì đến 90% các
trường hợp cấp tính tự khỏi sau vài ba tuần lễ. Cơ thể người bệnh tạo được kháng
thể (gọi là Anti-HBs) thì không có biến chứng gì xảy ra. Khoảng 10% các trường hợp
rơi vào tình trạng mãn tính, khoảng chín phần mười trong số đó sẽ là người lành
mang virus, nghĩa là có thể “sống chung hòa bình” với virus suốt đời, tuy có thể lây
truyền bệnh cho người khác, còn một phần mười còn lại có thể sinh biến chứng xơ
gan hoặc ung thư gan. Cần hiểu rõ điều này để tránh những hoang mang lo lắng vô
ích. Một người bình thường có thể mang siêu vi B suốt đời mà không bệnh, cũng