Hoàng Triều niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Gia Ứng Đại
Vương. Năm thứ tư, gia thêm hai chữ Thiện Cảm. Năm Hưng Long thứ hai
mươi mốt, gia phong hai chữ Linh Vũ; nhờ công âm phù mặc tướng của
thần, thôn dân hưởng được nhiều hạnh phúc vậy.
Tiếm bình
Nước ta xưa có nước Việt Thường, nói thì uốn lưỡi, thân hình vẽ rồng,
phong túc phác lậu, đại khái như thổ dân các châu động ngày nay.
Từ khi Triệu Đà cai trị bảy quận, đem Thi, Thư giáo huấn quốc tục,
Nhâm Diên làmThái thú Cửu Chân lại đem lễ nghĩa dạy dỗ quốc dân, bởi
vậy, nước ta mới dần dần hiểu biết văn tự có ích cho người, lễ nghĩa quan
hệ đến phong tục, cái đà văn minh cũng do đấy dần dần tiến triển. Kịp đến
lúc Sĩ Phủ Quân đem sóng dư của sông Thù sông Tứ tràn dần qua Nam Hải,
bàn việc trở đầu trong hội can qua, gảy đờn ca ở làng hầu hến, người nghe
điếc tai vì tiếng chuông, thanh giáo phổ cập đến đâulà đấy hấpthụ được hoa
phong. Sau này, triều Lý, triều Trần, triều Lê thay đổi nhau dựng trường
học, đặt khoa thi, văntrị bột phát trên dưới vài nghìn nămtrămnăm, nhân tài
bối xuất, bèn xưng là nước văn hiến, hoán tỉnh lòng người, huy đẳng
thượng quốc. Sử gọi văn phong Lĩnh Nam, bắt đầu từ Sĩ Vương thì công ấy
há chẳng tốt đẹp lắm ru?
Đang lúc ấy, tam quốc chia thành thế chân vạc, trung nguyên như nồi
canh sôi, duy nước ta một phương được nhờ yên ổn, những kẻ danh hiền,
đạt nhân nghe tiếng mà đến, làm thành một nơi văn vật đô hội lừng lẫy.
Vương, phương Bắc thờ nhà Đại Hán, phương Đông đẹp lòng Cường Ngô,
anh em đều làm chủ các quận, vinh diệu một thời, hàn mặc lừng lẫy. Vương
hiệu là do cửa miệng của người trong châu xưng hô, chứ Vương không hề
ngang nhiên dám tự tôn đại, như Nam Hải Úy Đà cỡi xe hoàn gốc, cắm cờ
tả đạo. Sách rằng: “Sợ mệnh trời, giữ được nước” Vương thực là đúng, còn
như chuông trống, xe cộ, nghi vệ ra vào ấy chẳng có gì là lạm. Bôn mươi
tám nămở quận, hưởng thọ hơn chín mươi năm, sống có vinh danh, chết