THIÊN TỔ ĐỊA CHỦ XÃ TẮC ĐẾ QUÂN
Đế Quân Để Hậu Tắc, dạy dân trồng các giống lúa, từ đời nhà Chu về sau
được thờ làm xã thần. Nước ta đặt đền thờ ở bên cửa Quốc Bình phía Nam
La Thành. Miếu điện tôn nghiêm, tục gọi là Xã Đàn, uy linh của Thần lúc
nào cũng hiển hách. Trải qua mấy triều, lúc nào lễ Giao cũng phối Thần với
Trời; năm nào có đại hạn hay sâu keo, cúng cầu có linh ứng.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, truy phong tước Hậu Tắc Ty Đế Quân;
đến năm thứ tư cải phong Thiên Tổ Xã Tắc Đế Quân. Năm Hưng Long thứ
hai mươi mốt, gia phong Thiên Tổ Địa Chủ Xã Tắc Đế Quân.
Tiếm bình
Chép rằng có công đức với dân thời nên thờ, thần Hậu Tắc cho dân ta có
cơm ăn, công đức có gì lớn lao bằng, nước có đền thờ kể đã lâu lắm. Nước
ta gây dựng cơ đồ ở Nhật Nam, xưng là dòng dõi nhà An, nhang trầm cúng
vái, thầm có ý bổ sự an ninh lâu dài nghìn trăm năm về sau. Nhưng mà Đế
Quân chẳng phải hiệu, Thiên Tổ chẳng phải tên, tự điển nên xưng là thần
Hậu Tắc ngõ hầu mới được rõ ràng dễ hiểu. Xét bậc Tiên nông chỗ nào
cũng có thờ, duy nước ta mới được xưng là Xã Tắc. Triều nhà Lê, từ khi
chia giới hạn ở sông Linh Giang, lấy Cầu Dinh làm trọng trần, trần có nền
Xã Tắc, không chép vào kinh điển.
Nhà Nguỵ Tây ở Phú Xuân mà trấn Nghệ An còn để đàn hiệu, gần đây có
một tên học trò, ưa khôi hài, khéo đó họa; quan Thự Trần nhà Nguỵ tế Xã
Tắc, lễ xong, bèn khiến tên học trò vẽ một bức đồ, đàn cuộc giống như lễ tế,
ở dưới vẽ một con chó ăn những cái xương dư sau khi tế xong, và để sáu
chữ rằng: “cẩu hữu lợi ư xã tắc”, nghĩa là chó có có lợi cho xã tắc, ý là để
chê khéo vậy. Ôi! Thần là bậc thông minh chính trực, tế mà phi lễ thì thần
có chịu hưởng không, hay là nhổ nước miếng mà bỏ đi?
Vả lại, trong nước khi cấy lúa,khi gặt lúa, cho đến việc cầu trừ đại hạn
sâu keo đều cúng ông Thần Nông, mà lễ thường tân (cơm mới) chỉ dùng ở
các đình chùa nhà miếu mà thôi, thật là trái gốc.