quan văn võ đều xu phụ trước cửa, sống thời kết đảng phản bội công lý,
chết thời viện lệ để sắc phong Vương tước. Mồ mả sánh với Sơn lăng, nhà
cửa lớn hơn Vương phủ, những ai trông thấy đều cũng căm gan. Chỉ duy
biết phụng việc công như Hoàng Ngũ Phúc, đem lòng kính cẩn thờ vua, lấy
điều nghiêm minh sửa trị kẻ dưới, thường thống lãnh đại quân đi đánh dẹp,
bình được cái loạn Nguyễn Chất, Nguyễn Cầu, giặc trông thấy bóng cờ bảo
nhau đó là cờ của Mặc Nha Tướng Công rồi đem nhau tránh đi, oai đức
phục người xa như thế, công nghiệp rạng ở triều, vang cả mọi rợ, mỗi khi ở
chỗ miếu đường bàn việc chính sự, sáng suốt quả quyết, nghiễm nhiên có
phong thế đại thần.
Năm Giáp Ngọ, ông làm Thượng tướng, đem quân qua sông Linh Giang,
bắt được phó tướng của giặc, vào trong đám vài vạn hùng binh như là vào
cõi không người, thu hào không phạm, chung cự không dời, nếu không có
trí dũng hơn người thì đâu được như thế? Nhân sĩ Hà Nam đến nay vẫn còn
thương mến mà truy tặng đến tước Đại Vương, đời Chiêu Thống năm đầu,
có tờ chiếu tước đoạt Vương tước của các vị hoạn quan, duy Việp Công
được nhưng cựu mà thôi, đó cũng là công luận của thiên hạ chớ không phải
ý riêng của Bằng Lĩnh vậy.
Than ôi! Nhật Nam lập quốc trên dưới vài nghìn trăm năm, tìm những kẻ
danh thần ở trong hàng quan Nội Thị, sử xanh đời đời ghi được như Việt
Công Việp Công thì có mấy người đâu?
_________________
Chú thích:
102 Tên họ của Thường Kiệt được ghi một cách khác trong mộ chí của
Đỗ Anh Vũ, làng Yên Lạc, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Theo Hoàng
Xuân Hãn (trong Lý Thường Kiệt, quyển 2, trang 388‐390), những đoạn
liên can đến Lý Thường Kiệt của một chí ấy cho biết “cha Thường Kiệt là
một quan thái uý đời Thánh Tông, họ Quách, quán ở huyện Câu Lậu, thuộc
Tế Giang… Nay xét các sách Toàn Thư và Việt Sử Lược, ta thấy ở đời Thái
Tông có thái uý Quách Thịnh Dật là tướng mà Thái Tông sai cầm quân