Thường Kiệt mất, kể đủ các chức tước của ông như sau: suy thành hiệp
mưu, thủ chính, tá lý, dực đới công thần, thủ thượng thư lệnh, khai phủ nghị
đồng tam ti, nhập nội nội tri tịnh đô đô tri, kiểm hiệu thái uý, kiêm ngự sử
đại phu, dao thụ chư trấn tiết độ sứ, đồng trung thư môn hạ bình chương
sự, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, việt
quốc công, thực ấp nhất vạn hộ, thực thật phong tứ thiên hộ. Nghĩa là: kẻ
bầy tôi có công, trung thành, bày mưu, cầm tiết, giữ chính, giúp việc, phò
tá; coi việc ti thượng thư, được quyền mở phủ, ngang với tam ti, được vào
nội, coi tất cả các việc chầu trong cung, lĩnh chức thái uý đứng đầu các
quân; kiêm chức ngự sử đại phu kiểm soát việc chính, ở Kinh coi việc quân
tất cả các trấn, cùng coi việc bí thư, hằng ngày đến gần vua bàn việc; hàm
thượng trụ quốc, đã có công bắt được tướng giặc; em nuôi vua; chức thượng
tướng giúp nước, tước quốc công, hiệu Việt, được phong lộc hạng một vạn
hộ, được thật phong lộc bốn nghìn hộ.