quyền lực này đều nằm trong tay vị Giáo chủ La Mã”. [2]
Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, ông đặt tên mình cho đại lộ lớn nhất của thị xã này
đến nỗi người bạn thân của gia đình là Cụ Huỳnh Minh Ý cũng phải chê
trách. [3]
Ông Ngô Đình Nhu là một Dân biểu Quốc hội không bao giờ biết đến dân
chúng nơi địa phương mình ra ứng cử, không bao giờ bước chân đến tòa
nhà Lập Pháp để tham dự sinh hoạt nghị trường và làm trách nhiệm dân cử,
mà chỉ ngồi tại dinh Tổng thống để ra chỉ thị cho Quốc hội làm luật theo ý
của anh em ông ta. Thực quyền như thế nhưng ông Ngô Đình Nhu vẫn cần
có chức Dân biểu có lẽ là chỉ để điều khiển và kiểm soát Quốc hội cho
chính danh, nhưng thật ra chính cái chức vụ “Cố vấn Chính trị” của ông bên
cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm mới thật sự là bộ não của chế độ, nơi khai
sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn
khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng
quyền hành thực sự lại nằm trong tay Cố vấn Chính trị Ngô Đình Nhu. Điều
đặc biệt của chế độ Cộng hòa Ngô Đình Diệm là chức Cố vấn Chính trị của
ông Ngô Đình Nhu lại không phải là một chức vụ chính thức của chính
quyền như chức cố vấn được công khai hóa và quy chế hóa của các vị lãnh
đạo các nước dân chủ trên thế giới. Ông Nhu và gia đình ông ta ở trong dinh
Tổng thống, ông có văn phòng riêng, ông giúp việc cho Tổng thống rồi
bỗng nhiên người trong dinh gọi ông là “cố vấn”. Lời xưng hô lan rộng ra
ngoài để rồi nhân dân, báo chí, người ngoại quốc đều gọi ông là cố vấn, một
cố vấn không chánh danh mà lại nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay.
Bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh là Trần thị Lệ Xuân, cũng là một Dân biểu
Quốc hội, bà còn được người ta xưng tụng là “Đệ nhất phu nhân”. Không
biết danh từ “Đệ nhất phu nhân” xuất hiện từ đâu và từ khi nào, mà rồi báo
chí, đài phát thanh, phim thời sự của các rạp chớp bóng đều gọi bà Nhu là
“Đệ nhất phu nhân”. Do đó cả nước phải gọi bà là Đệ nhất phu nhân, dù
danh từ đó trong truyền thống sử dụng ngôn ngữ Việt Nam không được