miền đó vì ông nắm hết mọi quyền hành nhất là quyền bổ nhiệm nhân sự,
còn các đại biểu chính phủ và Tỉnh trưởng chỉ là những viên chức thừa hành
mệnh lệnh của ông mà thôi. Ông Ngô Đình Cẩn được nhân dân Việt Nam và
sách sử, báo chí quốc tế tặng cho hỗn danh là “Lãnh chúa miền Trung”, điều
đó cũng đủ nói lên cái uy quyền sinh sát của ông ta rồi.
Ông Ngô Đình Luyện là người em trai chót, vào năm 1955, làm Đại sứ lưu
động tại Âu Châu. Thật ra lúc bấy giờ ông Luyện ở Việt Nam nhiều hơn ở
Âu Châu vì ông Diệm cần ông ta ở bên cạnh để cùng lo đối phó với những
khó khăn của thời cuộc, những chống đối quốc nội của tướng Nguyễn văn
Hinh, Bình Xuyên... Sau khi truất phế Bảo Đại xong, phần vì sự bất đồng
chính kiến giữa hai ông Nhu và Luyện, phần thì Tổng thống Diệm muốn có
một người ruột thịt ở Âu Châu nên ông Luyện được cử giữ chức Đại sứ Việt
Nam tại Anh Quốc. Vì vậy, trước khi lấy một quyết định ngoại giao quan
trọng đối với bất kỳ một quốc gia nào ở Âu Châu và Bắc Phi, ông Diệm
cũng thường tham khảo ý kiến trước với ông Luyện. Từ đó ông Luyện trở
thành một thứ siêu Đại sứ mà các vị đại sứ Việt Nam tại Âu Châu và Bắc
Phi phải nể sợ và vâng lời.
Về trường hợp của ông Ngô Đình Luyện, Hillaire du Berrier đã đưa ra ánh
sáng một bí ẩn lịch sử vào năm 1955 như sau đây:
Thật ra chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu không cần thiết khi mà Việt Nam
đã có một ông Đại sứ đặt văn phòng tại số 47 bis đường Kleber ở Paris, nơi
mà Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện cũng đặt văn phòng. Nhưng ông Diệm
phải đặt ra chức Đại sứ lưu động Âu Châu, đặt ra trong lúc tình hình Sài
Gòn vô cùng căng thẳng, là cốt để kịp thời phái ông Luyện đến yết kiến Bảo
Đại để xin Bảo Đại một lời tuyên bố tín nhiệm ông Diệm trước khi sự bất
tín nhiệm của cả Bảo Đại lẫn Đại sứ Collins tại Sài Gòn đến được Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ. [7]
Quả đúng với lời trình bày của Berrier vì sau khi vua Bảo Đại bị truất phế,
Đại sứ Collins bị triệu hồi về Mỹ, chức Đại sứ lưu động tại Âu Châu cũng