nhiều bà con tại miền Trung nên nói đến đó tôi ra dấu cho đại tá Phùng
Ngọc Trưng ra về, để tôi mạnh miệng hơn trong việc kể tội Ngô Đình Cẩn.
Có đúng như thế không hỡi anh Phùng Ngọc Trưng ơi!
-o0o-
Dưới thời Pháp thuộc, trong mưu đồ tiêu diệt nền tam giáo tại Việt Nam để
có thể dễ dàng truyền đạo, các vị cố đạo ngoại quốc thường dựa vào quyền
hành và luật lệ của thực dân hay dựa vào tiền bạc và thế lực của Chính phủ
bảo hộ để mua chuộc giới bình dân Việt Nam theo Công giáo, xúi giục họ từ
bỏ tục lệ phong hóa cổ truyền của dân tộc như học giả Đào Trinh Nhất nói
rõ trong cuốn Phan Đình Phùng. Phương cách và thủ đoạn đó không mang
lại kết quả bao nhiêu cho tham vọng của các giáo sĩ Tây phương như học
giả Đào Duy Anh đã trình bày:
... Trong số những người theo Cơ Đốc giáo, một phần rất lớn là vì lợi mà
theo chứ không phải là vì tín ngưỡng sâu xa, cho nên ta có thể nói rằng ảnh
hưởng tinh thần của Cơ Đốc giáo đối với dân ta lại còn ít hơn những thành
tích thực hiện nữa.[3]
Mãi đến năm 1944, Công giáo mới cho ra đời cuốn Lịch sử đạo Thiên Chúa
tại Việt Nam với hậu ý muốn chứng minh sự hiện hữu có nguồn gốc của
giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam trong lịch sử dân tộc Việt. Trong bài đề
tựa, Đức khâm mạng Tòa Thánh Drapier than phiền chỉ có dân nghèo, chỉ
có giới bình dân dốt nát mới nghe theo tin mừng của Chúa Kitô, còn giới có
học thì cố tình không biết đến đạo lý của Gia Tô”. Ngay cả trí thức Công
giáo như ông Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung cũng phải nêu lên lý do
“bất khoan dung” của Thiên Chúa giáo làm cho các dân tộc Á Đông bất
mãn, khước từ.
Tôi nghĩ rằng sự bất khoan dung nói trên (ngoài những lý do khác) đã khiến
cho Giáo hội va chạm nặng nề với các dân tộc Áá Đông và đã không thành
công mỹ mãn trong việc rao giảng tin mừng tại vùng này. Sau bốn thế kỷ
giảng đạo với những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải
nhận rằng số người Á Đông theo đạo luật thật là ít ỏi, ngoại trừ xứ Phi Luật