nhóm các ông Phan Bá Cầm, Xuân Tùng, Hoàng Cơ Thụy lãnh đạo,… và
hai cuộc binh biến táo bạo cũng như quyết liệt của binh chủng Nhảy Dù và
vụ ném bom dinh Độc Lập. Đó là chưa nói đến những cá nhân hoặc đoàn
thể trước kia đã từng cộng tác, ủng hộ và nhiều khi hy sinh cả đời người cho
hoạt động chính trị của hai ông Nhu–Diệm thì kể từ năm 1960 trở đi, cũng
đã công khai lên án chế độ và bày tỏ thái độ chống đối gia đình họ Ngô. Và
đó cũng chưa kể đến sự công phẫn của quần chúng mà điển hình là cuộc vận
động cách mạng của Phật giáo bắt đầu lan rộng và biến thành những hình
thức đề kháng chế độ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Những hoạt động chống đối đó đáng lẽ phải được nghiên cứu sâu sắc và
truy tầm nguyên nhân để rút ra những bài học tích cực hầu xây dựng dân
chủ và sửa sai chế độ thì hai ông Nhu–Diệm lại xem đó như những khiêu
khích phản loạn cần phải diệt trừ cho tuyệt hậu họa. Họ đã xem hành động
đối lập của các lực lượng quốc gia như hành động của kẻ thù tối nguy hiểm
vì chính đối lập mới thực sự đe dọa đến quyền hành và danh vọng của họ,
quyền lợi và mạng sống của họ. Họ lo lắng suy nghĩ và dành nhiều phương
tiện cũng như nhân sự của quốc gia để lo đối phó với những thành phần đối
lập quốc gia còn hơn cả đối phó với kẻ thù Cộng Sản. Nhưng như tôi đã
trình bày và lịch sử giai đoạn đó đã chứng minh, chế độ càng đàn áp thì sự
chống đối càng gia tăng. Gia tăng trên cả hai mặt mức độ cũng như số lượng
đến nỗi đã dùng đến cả võ lực (vụ ném bom) vốn là hình thức cao nhất và
dứt khoát nhất của mọi cuộc đấu tranh.
Tình trạng lớn mạnh của đối lập đó, trong những năm từ 1960 trở đi, tuy
chưa trực tiếp và tức thì đe dọa chế độ, nhưng hai ông Nhu–Diệm cũng đã
phải nhận rằng nếu tình trạng đó kéo dài thì chính các lực lượng chính trị
đối lập đó, chứ không ai khác, trong tương lai sẽ đập tan chế độ và uy quyền
của họ. Nhận định đó, khi biến cố Phật giáo xảy ra vào năm 1963 và nhất là
khi những áp lực của người Mỹ trở thành nặng nề hơn, mới trở thành một