năm 1974 là 16%, cả năm 1974 sẽ lên tới 96%. Đồng đô la năm 1974 giá
chính thức là 685 đồng, giá chợ đen còn cao hơn nhiều.
Thiệu chạy vạy cố móc ví của Washington được càng nhiều đô la càng
tốt. Thế nhưng Nicxon bị vướng vào vụ bê bối Watergate và những khó
khăn của nền kinh tế của Hoa Kỳ, nên chỉ có thể móc được của Quốc hội
Mỹ 322 triệu đô la trong năm tài chính 1973-1974(năm 1972 được 500
triệu). Thiệu đi một vòng các thủ đô phương Tây xin viện trợ, nhưng không
gặt hái được mấy kết quả. Y liền tìm cách bán đổ bán tháo những tài
nguyên của đất nước dưới dạng tạo điều kiện có lợi nhất cho các công ty
dầu hỏa và các công ty khác, nhưng chỉ thu được 51 triệu đô la từ các công
ty dầu hỏa Mỹ, Pháp, Nhật, Ca-na-đa và vài triệu từ các nguồn đầu tư khác.
Để trang trải ngân sách, Thiệu quay sang các loại thuế và lệ phí. Tờ Tin
Sáng ở Sài Gòn ngày 21 tháng 4 năm 1973 viết:
''Từ đầu năm 1973, tất cả các loại thuế đều tăng: thuế quầy hàng, thuế
môn bài, thuế thu nhập đều tăng gấp ba. Thuế cước vận chuyển tăng lên 15
lần, các loại thuế khác đều tăng gấp đôi, vài thứ thuế khác tăng gấp 4, như
thuế đánh vào các nhà in'' Ngày 1-7-1973, Thiệu ban hành một thứ thuế
mới(thuế giá trị gia tăng) đánh vào tất cả mọi sản phẩm. Theo các báo Sài
Gòn, trong vòng 40 ngày, dân chúng bị tước đoạt mất 5200 triệu đồng bởi
thứ thuế này. Sự phản đối quyết liệt của mọi tầng lớp nhân dân buộc chính
quyền Sài Gòn lùi bước, phải thôi không thu loại thuế này trong một vài
khu vực. Ngày 22 tháng 11 năm 1973, Thiệu tăng thuế đối với hơn 200 mặt
hàng nhập khẩu. Đầu năm 1973, một lít xăng giá 40 đồng, thuế đặc biệt là
20 đồng. Một năm sau, giá xăng lên đen 240 đồng/lít và thuế là 100 đồng.
Giá đường đầu năm 1973 với thuế suất 10% là 200 đồng/1 kilô, một năm
sau lên 600 đồng. Giá cả và thuế cũng leo thang như thế đối với các mặt
hàng thuốc lá, rượu, bia, thuốc lá điếu... Thuế ruộng đất tăng 20%. Thuế
đánh vào tiểu thương tăng 100%. Năm 1974, Thiệu chủ trương đẩy mạnh
việc thu thuế ở các vùng nông thôn, cho đến lúc bấy giờ chỉ mới cung cấp
10% ngân sách.