Giai cấp vô sản, sức mạnh của tương lai
Giai cấp công nhân, như ta đã thấy, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc,
đã có một bước phát triển mới. Năm 1929, có khoảng 22 vạn thợ thuyền
phân phối như sau: Ở các hầm mỏ 53.000 người, các nhà máy 86.000
người. Ở các đồn điền, chủ yếu là đồn điền cao su: 80.000 người. Phần lớn
các doanh nghiệp Pháp ở Campuchia, ở Lào, cả ở Tân Calêđôni đều tuyển
dụng nhân công người Việt Nam, khoảng vài chục nghìn người.
Xét về mặt số lượng, giai cấp công nhân chỉ là một phân số rất nhỏ của
dân số, nhưng lại tập trung ở những khu vực có tầm quan trọng sống còn
đối với nền kinh tế thuộc địa: Hầm mỏ, đồn điền cao su, các thành phố lớn.
Đó là giai cấp xã hội duy nhất phải trực tiếp và thường nhật đối đầu với sự
bóc lột kinh tế thuộc địa, đồng thời hàng ngày tiếp xúc với các kỹ thuật sản
xuất hiện đại. Vì vậy họ chiếm vị trí ''chiến lược'' quan trọng hàng đầu
trong lòng xã hội Việt Nam.
Ít có những công nhân được chuyên môn hóa hoặc đơn giản là có tay
nghề, có việc làm ổn định trong các xí nghiệp; nhiều người làm việc không
thường xuyên, khi thiếu việc hoặc khi hết hợp đồng lại trở về làng. Do đó
có một sự tiếp xúc chặt chẽ giữa công nhân, nông dân và số người từng trải
qua cuộc sống công nhân có thời hạn trong các xí nghiệp thuộc địa còn lớn
hơn nhiều so với những con số chính thức.
Công nhân bị bóc lột tàn tệ, số đàn bà và trẻ con bị sử dụng vào lao động
cục nhọc rất đông. Những tên cai mộ phu dạo khắp các thôn xóm, ép những
nông dân mù chữ ký vào những ''hợp đồng'' được coi như là họ đã đọc, theo
đó họ cam kết lao động trong các hầm mỏ hoặc các đồn điền từ 3 đến 5
năm. Kẻ đi tuyển mộ được hưởng một số tiền tính theo đầu người công
nhân được tuyển. Số công nhân tuyển theo cách đó được đưa đến các đồn
điền cao su ở Nam Kỳ, các mỏ kền ở Tân Calêđoni lao động trong những
điều kiện tồi tệ nhất. Số giờ lao động trong một ngày là vô hạn định, ăn
uống kham khổ không mấy ai thoát khỏi bệnh sốt rét. Bọn ''cai'' phu kiểm