mỗi câu bốn năm chữ, có vần, có đối, hoặc không đối (Xem bài đọc thêm số 3)
3) Lối phú cổ thể hoặc lưu thủy
4) Lối phú Đường luật. Lối này là lối thông dụng nhất. Thí dụ: Văn tế Vũ Tính
và Ngô Tùng Châu (xem phần thứ nhì, bài số 79)
5) Trong văn nôm ta, văn tế lại có thể làm theo thể song thất lục bát (sẽ nói ở
chương XV,2 *) Thí dụ: bài văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du.
Phép làm văn tế theo lối Đường phú .-
A) Cách hiệp vần (thường dùng độc vận) , cách đặt câu và luật bằng trắc theo
đúng như thể thức đối phú Đường luật đã nói trên . Xem 3*
B) Các đoạn mạch.- Một bài văn tế thường chia ra làm các đoạn sau này:
1) Đoạn mở bài (bắt đâầ bằng hai chữ “than ôi”) hoặc “Than rằng” hoặc
“Thương ôi” trước đặt một câu cách cú hoặc gối hạc, rồi đến một câu song quan.
2) Đoạn kể đức tính công nghiệp người chết (thường bằng đầu bằng mấy chữ
“Nhớ cha xưa” hoặc “Nhớ bạn xưa, v.v.” trước đặt vài câu tứ tự, hoặc bát tự rồi
đến những câu cách cú, song quan , gối hạc, nhiều ít tùy ý.
3) Đoạn than tiếc người chết (thường bắt đầu bằng chữ “Ôi!”: cách sắp đặt các
câu cũng như đoạn trên.
4) Đoạn tỏ tình thương nhớ của người đứng tế (thường bắt đâu bằng mấy chữ
“con nay” hoặc “Bản chức nay”, v.v. Cách xếp đặt các câu cũng như đoạn trên.
Cuối đoạn này thường đặt hai chữ Thượng hưởng (ước mong hưởng cho) là hết.
CÁC BÀI ĐỌC THÊM
1. MỘT BÀI PHÚ LƯU THỦY
Bài phú sông Bạch đằng.
Khách có kẻ: chèo bể bơi trăng, buồm mây giong gió. sớm ngọn Tương kia,
chiêu hang Vũ nọ. Vùng vẫy Giang, Hồ; tiêu dao Ngô, Sở. Đi cho biết đây, đi
cho biết đó. Chằm Vân mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu; mà
cái trí khi tứ phương, vẫn còn hăm hở!
Mời học thói Tử trương; bốn bể ngao du. Qua cửa Đại-Than, sang bến Đông
Triều; đến sông Bạch Đằng, đủng đỉnh phiếm chu. thắng xoá sông kềnh muôn
dặm; xanh rì đặng ác một màu. Nước trời lộn sắc, phòng cảnh vừa thu. Ngàn lau