muốn ngang. Có gì lạ đâu; Tổ tôm một phường. Có gì khác đâu: khác chín lừng
khàn. Từ khi mới sang, vác mặt nghiêng ngang. Đi đầu theo đó, sum họp thành
làng.
(Biện nguyên) Nguyên người ở đâu? – Ngươi ở bên Tàu. Tên ngươi ai đặt? Họ
ngươi ai đầu? Trong phường dệt gấm chú chiệc bán dầu.
(Thích thực hai vần) Vài mươi năm trước, qua nước Nam Việt. Xưa chửa biết ai,
nay ai cũng biết. Càng quen thuộc lắm, chơi bời càng riết. Kể mặt làng chơi, tín
hsao cho xiết.
Thím khách, cô tây; bác thông, cậu ký, Thầy giáo thâầ nho; cụ tổng, cụ lý. Ông
cả, bà lớn; bố cu, mẹ đĩ. Đến cả sãi chùa, cùng đàn trẻ bé. Rằng buồn, ông chơi ,
thấy vui, cháu ké.
(Phu diễn hai vần) Nơi thời: lầu hồng gió cuốn, gác tía trăng soi. Đèn pha lê
thắp, sập vân mẫu ngồi. Kẻ hầu bốc nọc, đứa chực chia bài. Trăn nghìn không
kể, chơi lấy kẻo hoài.
Nơi thời: Mấy mặt làng nho, vài người bạn cũ. Điếu thuốc, miếng giầu; câu thơ,
vần phú. Ngày hãy còn dài, ta chơi cho bõ.
(Nghị luận hai vần ) lại kìa: mấy cậu dẻo trai, mấy ả mày ngài. đồng hồ túi áo,
kim cương hoa tai. Ma-đam, me-sừ; giắt lưng cỗ bài. Chim chuột là cốt, được
thua cũng lời.
Lại kia : nhà tranh rấch rác, giường tre lệch lạc. Thằng quấn lồng bàn, đưa khăn
mãnh bát. Xỏ lá một phường, bợm keo một loạt. Thuốt khét râu ngô, bước bung
chè hạt. Người mươi đồng xu, bài mọt cỗ nát. Ngọn đèn lờ mờ, năm canh xào
xạc.
(Kết) Thôi thôi thôi thôi: Chú tài, thím tài; ông bàn , bà bàn ! Xin xuống tàu
trước, cả nước tôi van!
(Nễ giang Nguyễn Thiện Kế).
2. Một bài văn tế làm theo lối tán .
Văn tế một vị công chúa.
Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu