trắc theo thứ tự này :
t T b B T B
Thí dụ:
Thuở ấy có vua Bảo vương,
Sinh ra công chúa phi phương lạ lùng (Lý công truyện)
3. Ngâm
Song thất lục bát – Ngâm là một bài văn vần tả những tình cảm ở trong lòng,
thứ nhất là những tình buồn, sầu, đau, thương. Các ngâm khúc trong văn ta làm
theo thể song thất lục bát, thường gọi tắt là song thất.
Số chữ trong câu của thể song thất.- Song thất lục bát, nghĩa đen là “hai bảy, sáu
tám”,. Phép đặt câu trong thể này cứ hai câu bảy chữ, rồi đến một câu sáu chữ,
một câu tám chữ. Cứ bốn câu thành một đoạn con, muốn đặt dài ngắn tùy ý,
miễn là phải đặt cho trọn từng đoạn. thể này cũng gọi là lục bát gián thất nghĩa
là câu sáu, câu tám có xen vào những câu bảy.
Cách hiệp vần trong thể song thất.- Chữ cuối câu 7 trên vần với chữ thứ năm
câu bảy dưới, đều là vần trắc. Chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu sáu,
đều là vần bằng. Chữ cuối câu sáu vần với chữ thứ sáu câu tám mà là vần bằng
(theo như thể lục bát). Chữ cuối câu tám lại vần với chữ thứ năm câu bảy trên
của đoạn sau mà cũng là vần bằng. thành ra mỗi đoạn bốn câu có bốn vần: một
vần trắc và ba vần bằng. Trừ câu sáu không kể, các câu kia mỗi câu đều có hai
chữ vần; một yêu vận và một cước vận. Thí dụ: Tám câu đầu trong chinh phụ
ngâm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi (cvt)
Khách má hồng nhiều nỗi (yvt) truân chuyên (cvb)
Xanh kia thăm thẳn từng trên (cvb)
Vì ai gây dựng cho nên (yvb) nỗi này (cvb) !
Trống Trường thành lung lay (yvb.1) bóng nguyệt (cvt2).
Khói cam tuyền mờ mịt (yvt.2) thức mây (cvb.3)
Chín tầng gươm báu trao tay *cvb.3)
Nửa đêm truyền hịch định ngày (yvb.e) xuất chinh (cvb.4)
Luật bằng trắc trong thể song thất.- Hai câu sáu tám theo đúng luật của thể lục
bát đã nói trên. Đến hai câu bảy thì trừ chữ thứ nhất không kể, muốn đặt tiếng gì
cũng được, còn sáu chữ sau chia làm ba đoạn mỗi đoạn hai chữ. Trong câu bảy