vậy.
Lịch sử Phật giáo ở nước Nam.
Có thể chia ra làm ba thời kỳ:
A) Thời kỳ truyền bá (từ cuối thế kỷ thứ II đến cuối thế kỷ thứ VI, tự lúc nội
thuộc nhà Hán đến hết đời Nam Bắc triều): nhờ các vị sư Tàu và thứ nhất là các
vị sư Ấn độ mà Phật giáo dần dần truyền trong dân gian, nhưng chưa có tổ chức
gì.
B) Thời kỳ phát đạt: (tự thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ XIV , từ lúc nội thuộc nhà
Tùy đến cuối đời nhà Trần): trong thời kỳ này, có ba Thiền phái (6) kế tiếp nhau
thịnh đạt ở nước ta.
1) Tự năm 580, vị sư người Tây trúc tên là TiniĐaLưuChi, đến ở chùa Pháp vân
(nay thuộc tỉnh Bắc ninh) lập một Thiền phái thứ nhất ở nước Nam truyền được
19 đời (680-1216) trong các vị Pháp Hiền (+626), Đỗ Pháp Thuận (+990+, Vạn
Hạnh (+1018), Từ Đạo Hạnh (+1122).
2) Tự năm 820, vị sư người Tàu tên là Vô Ngôn Thông đến ở chùa Kiến sơ (ở
làng PHù đổng, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh) lập một Thiền phái thứ hai truyền
được 14 đời (820-1221) trong có các vị sư Ngô Chân Lưu (+1011) và vua Lý
Thái Tôn (1000-1054) .
3) Đến thế kỷ thứ XI, vị sư Tàu tên là Thảo Đường được phong làm quốc sư lập
một Thiền phái thứ ba truyền được 5 đời (1069-1205), trong các vị vua nhà Lý:
Thánh tôn (1023-1072), Anh Tôn (1136-1175), Cao tôn (1173-1210)
Trong thời kỳ nầy, đạo Phật ở nước ta rất thịnh, hầu được coi như quốc giáo:
triểu đình đặt chức quốc sư, mở khoa thi tam giáo (Nho, Phật, Lão); nhiêù ông
vua nhà Lý, nhà Trần đi tu sau khi thoái vị và chùa chiền dựng lên ở trong nước
rất nhiều.
C) Thời kỳ suy đồi (từ thế kỷ thứ XV tức là tự đời Hậu Lê trở về sau): Phật giáo
bị phái Nho công kích không được nhà vua săn sóc đến nữa, lâu dần thành một
tôn giáo của dân chúng, không có tổ chức thống hệ gì nữa. Các tăng ni phần
nhiều là người vô học thức bày ra các mối dị đoạn, các lễ nghi phiền phức để
cho bọn hạ lưu (thứ nhất là đàn bà) dua theo còn các giáo lý cao thâm của đạo
Phật ít người hiểu nữa.
--
(3) Khang cư (Sogdiane): tên cũ một xứ ở Châu Á, nay là xứ Boukhara thuộc