năm 1343 (Trần Dụ Tôn, Thiệu phong thứ 3) trên có khắc hai mươi tên làng
bằng chữ nôm: đó là cái tự tích chắc chắn về chữ nôm còn truyền lại đến giờ.
Cách chế tác chữ nôm.-
A) Tiếng Nam ta gồm có :
1. Những tiếng gốc ở chữ nho mà cách đọc :
a) hoặc giống hẳn chữ nho. Thí dụ: dân, tỉnh.
b) hoặc hơi khác âm chữ nho một chút. Thí dụ: côi (do chữ cô) cuộc (do chữ
cục)
2. Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ nho, nhưng âm đã sai lạc nhiều, chỉ còn
nghĩa là đúng. Thí dụ: nhà (với gia) ghế (kỷ)
3. Những tiếng không phải gốc ở chữ nho, nhưng âm hoặc giống hẳn hoặc na ná
với âm một chữ nho. Thí dụ: một (chỉ số) đồng âm với chữ một (có nghĩa là
mất); là, âm na ná với chữ la.
4. Những tiếng không phải gốc ở chữ nho mà cũng không đồng âm với chữ nho
nào. Thí dụ: đến, nói, trời.
Những tiếng thuộc về hạng thứ nhất bao giờ trong chữ nôm, cũng dùng một chữ
nho để viết; những tiếng thuộc hạng thứ nhì và thứ ba thường cũng dùng một
chữ nho; còn những tiếng thuộc hạng thứ tư phải dùng hai hoặc ba chữ nho mà
ghép lại.
B) Vậy sự viết chữ nôm có thể chia làm ba cách như sau:
1. Dùng nguyên hình chữ nho để viết:
a) Những tiếng gốc ở chữ nho, âm và nghĩa không đổi.
Thí dụ: tài; mệnh.
b) Những tiếng gốc ở chữ nho, âm hơi sai nhưng nghĩa không đổi. thí dụ (cô) =
côi, (cục)= cuộc.
c) Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ nho, nhưng âm khác nhiều, chỉ có nghĩa là
giống. Thí dụ (kỷ) = ghế , quyển = cuốn.
d) Những tiếng khác hẳn âm nhưng đồng âm với chữ nho ấy. Thí dụ: một, qua.
e) Những tiếng khác hẳn âm những cùng nghĩa với chữ nho ấy. Thí dụ (vị) =
mùi, (dịch)= việc.
2. Ghép hai chữ nho thành một dấu hiệu riêng.
a) Thông lệ - Xét các chữ nôm đặt theo cách này thì cái thông lệ là mỗi chữ có
hai phần: một phần chỉ ý và một phần chỉ âm.