Thí dụ:
Chữ đến gồm có chữ (nghĩa là đến) là phần chỉ ý và chữ (đọc là điển) là phần
chỉ âm;
Chữ năm gồm có chữ (đọc là nam) là phần chỉ âm và chữ (nghĩa là năm) là phần
chỉ ý;
Chữ trăm gồm có chữ (nghĩa là trăm) là phần chỉ ý và chữ (nghĩa là lâm) là phần
chỉ âm.
Còn cái địa vị của hai phần ấy thì không nhất định: khi thì phần chỉ ý ở bên trái
(thí dụ thứ nhất); khi thì phần ấy ở bên phải (thí dụ thứ hai): khi thì phần áy ở
trên (thí dụ thứ ba) .
Lời chú. Phần chỉ ý có khi là những chữ thường (như trong mấy thí dụ trên), có
khi những chữ bộ trong tự điển Tàu. Khi dùng chữ bộ ấy, thì chữ ấy đặt ở bên
trái hoặc ở trên. Thí dụ: chữ nói có bộ khẩu (nghĩa là miệng) chỉ ý vã chữ nội
(đọc là nội) chỉ âm.
Các bộ hay dùng đến là:
[nhân ] (người )
[khẩu] (miệng)
[thổ] (đất)
[thủ] (tay)
[thủy] (nước)
mộc (cây)
[thảo] (cỏ)
[nhục] (thịt)
[trúc] (tre
[mịch] (tơ)
b) Biệt lệ - Trái với thông lệ, có khi hai phần của một chữ nôm đều chỉ ý cả. thí
dụ: chữ trời có hai phần là chữ [thiên] (nghĩa là trời) và chữ [thượng] (nghĩa là
trên), đều chỉ ý cả .
3. Ghép một chữ nho (chỉ ý) với một chữ nôm (chỉ âm). Thí dụ: chữ nhời hoặc
lời do chữ nôm [khẩu] là chữ nhỏ nghĩa là miệng (chỉ ý) và chữ [trời] là chữ chữ
nôm đọc là trời (chỉ âm) ghép lại mà thành.
Khuyết điểm của chữ nôm. – Xem cách viết chữ nôm đã kể trên này thì thứ chữ
ấy không phải là không có phép tắc. Những chữ nôm chưa thành được một thứ