26. Trương Đăng Quế với vụ mất trộm ở nhà công chúa An
Nghĩa
Trương Đăng Quế người huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, nhưng tiên
tổ của ông lại là người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, di cư vào Nam năm
1623. Trương Đăng Quế là người đỗ Cử nhân đầu tiên của Quảng Ngãi.
Ông làm quan trải thờ ba đời vua là Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị
(1841-1847) và Tự Đức (1848-1883). Tuy hoạn lộ cũng có lúc thăng lúc
trầm, nhưng nhìn chung, Trương Đăng Quế luôn được vua yêu, đồng liêu
kính nể.
Bình sinh, ông là người thẳng thắn và vô tư. Chính vì thẳng thắn mà thi
thoảng ông bị quở trách, nhưng cũng chính vì vô tư mà chẳng bao lâu sau
đó, ông lại được tin dùng. Năm 1849, Trương Đăng Quế gặp phải một chút
rắc rối nho nhỏ do vụ mất trộm ở nhà Công chúa An Nghĩa. An Nghĩa là
Công chúa thứ mười của vua Gia Long, tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Ngôn,
sinh năm Giáp Tí (1804), mất năm Bính Thìn (1856). Năm 1823, vua Minh
Mạng gả Công chúa An Nghĩa cho Lê Văn An. Lê Văn An là con của Lê
Văn Phong mà Lê Văn Phong là người được hưởng quyền thừa tự Lê Văn
Duyệt. Năm 1835, vì vụ án Lê Văn Duyệt, Lê Văn An cũng bị xử tử.
Công chúa An Nghĩa sống trong cánh éo le như vậy nên cũng bị ức hiếp,
thậm chí, có khi còn bị quan lại cấu kết với bọn bất lương để làm khó, làm
dễ. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Nhị tập, quyển 21) có đoạn viết
về thực tế này như sau:
“Năm (Tự Đức) thứ hai (tức năm 1849 – NKT), bắt đầu đặt Viện Tập
, (Trương) Đăng Quế được sung làm Kinh Diên Giảng quan
. Một
hôm, khi đã giảng xong, Vua truyền cho (Trương) Đăng Quế ở lại chiếu
giáng, cho uống trà và bàn luận đạo trị nước của cố kim. Bấy giờ, nhà Công
chúa An Nghĩa mất trộm. Viên quan phủ của phủ Thừa Thiên đã chỉ tên và
hặc tội của viên quan làm việc ở Nội Các là Nguyễn Tấn, cho rằng
(Nguyễn Tấn) đã thông đồng với kẻ trộm, đồng thời nói thêm là Quản vệ
Lê Mậu Hạnh tuy biết rõ kẻ trộm nhưng không chịu bắt để giải tội. Bộ Hình