trực nên có nhiều người ghét đó thôi. Thần từng bị giam cầm, tội cũ chưa
chuộc hết, nay lại phạm thêm tội mới, vậy xin giao thần cho triều đình nghị
tội. Xử tội một mình thần mà khiến cho các bề tôi không công trạng gì lại
bất chính và tham lam … trông vào mà sợ hãi, thế là hợp với sở nguyện của
thần.
Vua cho là (Nguyễn Tri) Phương lầm lẫn, nói năng không phải phép, bèn
sai các quan ở Nội Các và Đô Sát Viện
, bày nghi trượng ở đại cung rồi
sai đình thần vâng chỉ mà xét hỏi. (Nguyễn) Tri Phương liền trình bày
nguyên do vì sao mình lại tâu như vậy và xin tạ tội. Vua dụ rằng: -Xưa nay,
các bề tôi kì cựu biết một lòng vì nước, nếu không phạm lỗi lớn, trẫm đều
bao bọc, chẳng riêng gì khanh mà ai cũng vậy. Tình trẫm đối với khanh,
chẳng những dương gian mà cả đến âm phủ cũng đều rõ cả. Thần dân trong
ngoài đều cho như thế là thái quá. Trẫm biết là khanh già lẫn, không chấp
nhặt. Nhưng nếu bỏ qua thì người đời sau sẽ không nắm vững mà chê vua
tôi ta đủ điều, ai sẽ là người lo giải thích cho?
Đình thần xin khép (Nguyễn) Tri Phương vào tội tấu đối thất lễ, để giáng
hai cấp nhưng vẫn cho lưu lại chức cũ để làm việc chỉ nên thôi việc ở bộ
(Công), vẫn làm cơ mật đại thần, lo việc phòng bị vùng biển và được phép
dự bàn các việc của triều đình.
Lời bàn
Hai lần bị nghiêm phê, trước sau cách nhau hơn ba chục năm trời, nhưng
sai phạm thì cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Lần đầu, ông thất lễ với đại
thần, lần sau, ông thất lễ với cả vua, nghĩa là lúc trẻ cũng như lúc già,
Nguyễn Tri Phương thường hay mắc lỗi thất lễ. Ông gọi đó là cương trực,
nhưng, có lẽ là ông đã lầm. Xem suốt hành trạng mới rõ, mỗi lần bị nghiêm
phê về một lỗi lầm nào đó là Nguyễn Tri Phương lại phản ứng dữ dội, và
đấy mới chính là nguyên nhân của sự thất lễ.
Xem việc ông vội vã đổ lỗi cho thủ kho, việc ông tiến cử Viên Ngoại
lang Nguyễn Văn Chất mà không lí giải rành rọt và việc ông nghi ai đó đã
dâng lời mật tấu để hại mình … cũng đủ biết tướng Nguyễn Tri Phương
chưa phải là người cẩn trọng xem xét mọi lẽ.