28. Phan Thanh Giản bảy lần bị trách phạt
Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) tại làng Tân Thạnh, huyện
Bảo An (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tiên tổ Phan Thanh Giản
vốn gốc Trung Quốc, mới di cư sang nước ta từ cuối thời Minh, đầu thời
Thanh. Lúc đầu, họ Phan định cư ở Bình Định, mãi đến khi phong trào Tây
Sơn bùng nổ, họ Phan mới di cư vào Bảo An.
Thuở nhỏ, Phan Thanh Giản đã nổi tiếng văn chương. Năm Ất Dậu
(1825), ông đỗ Á khoa, khoa thi Hương tại trường Hương – Gia Định. Năm
Bính Tuất (1826), ông đỗ Tiến sĩ, và ông là người đổ Tiến sĩ đầu tiên của
đất Nam kì lục tỉnh
.
Phan Thanh Giản làm quan trải thờ ba đời vua là Minh Mạng (1820-
1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), với nhiều chức vụ
quan trọng như: Thượng thư bộ Hình, Thượng thư bộ Lễ, Thượng thư bộ
Hộ … Thời Tự Đức, Phan Thanh Giản là Cơ mật đại thần, Hiệp biện Đại
học sĩ
, từng cầm đầu phái bộ sứ giả của nước ta sang Pháp. Năm Đinh
Mão (1867), Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử, hưởng thọ 71 tuổi.
Từ khi ra làm quan, Phan Thanh Giản đã tiến rất nhanh trên hoạn lộ,
nhưng cũng chính trên hoạn lộ, Phan Thanh Giản đã gặp không ít gian
truân và cuối cùng, ông đã tự giải thoát bằng liều thuốc độc. Sách Đại Nam
chính biên liệt truyện (Nhị tập quyển 26) đã dành một đoạn khá dài đề viết
về Phan Thanh Gián. Nay, xin theo đó để lược thuật bảy lần Phan Thanh
Giản bị trách phạt như sau:
- Lần thứ nhất xảy ra vào năm Minh Mạng thứ mười hai (1831). Bấy giờ
có cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc ít người ớ Quáng Nam. Phan
Thanh Giản được lệnh đem quân đi đánh nhưng vì thua trận nên bị cách
chức, bắt phải lập công để chuộc lỗi lầm. Năm sau (1832), ông được phục
chức.
- Lần thứ hai xảy ra vào năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836). Năm
này, vua Minh Mạng cho là đất nước thái bình nên định di tuần du ở Quảng
Nam. Phan Thanh Giản dâng sớ can ngăn, khiến Vua không vui. Nhà vua