Sa Vương (quận Tràng Sa ở vào địa hạt Hồ Nam bây giờ, chắc là nới giáp
giới của đất Nam Việt).
Phản ứng đó kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm
Canh Thân, Cao Hậu phái Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt
trả thù. Thủy thổ phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm
đau, chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán cũng không tiến được bước
nào đáng kể. Kịp tới Cao Hậu mất (năm 180 trước C.L.) Hán triều xét việc
Nam chinh không lợi liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thông
phương Nam, sau vụ này uy danh càng lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng
dùng mọi nghi thức Hoàng Đế nhường như sánh đôi với Hán Đế ở Trung
Quốc.
Họ Lã mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục.
Sự thần phục của Đế Quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các
vương triều Trung Quốc, dường như vương triều nào không có Nam Việt
trong vòng lệ thuộc của mình thì vương triều đó không rõ rệt là chúa tể bốn
phương, mặc dầu “Thiên Triều Trung Quốc” vẫn coi khinh dân tộc Miền
Nam là “Nam Man” cũng như đã gọi giống người bên kia Vạn Lý Trường
Thành là Hung Nô hay “Phiên Ngung” hoặc “Rợ Hồ”. Sự miệt thị đó đã tỏ
rõ cái tính kiêu ngạo của vương triều Trung Quốc tuy ngay trong thời đó và
sau này, lịch sử từng chắng dẫn nhiều phen, vương triều Trung Quốc đã thất
cơ lỡ vận và điêu đứng vì bọn “man di mọi rợ” đó: Mông cổ chiếm Trung
Hoa, Mãn Thanh vào làm vua Trung Quốc, Lý Thường Kiệt nhập Tống,
Trần Hưng Đạo bại nguyên, Nùng Trí Cao đánh chiếm Hoa Nam…
Hán triều lại phái Lục Giả sang Nam Việt và biết rằng xứ này dưới
quyền điều khiển của một danh tướng xưa kia của Trung quốc luôn mấy
chục năm đã càng ngày càng mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa,
vậy áp dụng một giải pháp chính trị có lợi hơn là một giải pháp quân sự.
Rồi Lục Giả mang một bức thơ có những lời lẽ rất nhũn nhặn, nhờ vậy
mà đôi bên Hán Việt lại nối tiếp cuộc hòa hiếu.