VIỆT SỬ TOÀN THƯ - Trang 254

chúng cực quá phải bán ruộng đất và con cái cho người ta làm nô tì. Giá
mỗi người chỉ có một quan (Toàn thư quyển 5, tờ 59b; Cương mục quyển 8,
tờ 16b). Tình trạng này đã do ba phen loạn ly gây nên, mọi việc cầy cấy đều
bị ngừng trệ. Để khai khẩn và làm lợi công quỹ những người bị tội đồ phải
liệt làm “cảo điền hoành” tức là nô lệ hay tù nhân dùng vào việc cầy cấy
ruộng công của Nhà nước (Xã Nhật Tảo xưa kia là Cao Xã). Mỗi người
phải phụ trách ba mẫu mỗi năm nộp ba trăm thưng thóc.

Nhân dân hàng năm phải nộp tiền “thân dịch”, quà tết tháng giêng và

tháng bảy thì dùng sam cá lẫn gạo.

Theo An Nam Chí Lược “Nông, thương bất trưng lương thuế” “không

phải nộp thuế” để nhân dân bớt khổ nhưng có lẽ chỉ trong lúc nước nhà vô
sự chăng, chứ từ hồi có loạn Mông Cổ do mấy cuộc chiến tranh tự vệ nếu
Trần triều không thu thuế các ruộng công tư thì lấy gì mà tiêu dùng và nuôi
binh đội.

Sử chép: Thuế thân căn cứ vào ruộng đất mà đánh (có lẽ đây là tiền thân

địch đã nói ở trên). Người vô sản được miễn.

Người có một hay hai mẫu phải nộp một quan tiền.

Người có ba hay bốn mẫu phải nộp hai quan.

Người có năm mẫu trở lên phải ba quan.

Thuế điền nộp bằng thóc, theo tỷ lệ: mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc.

Thăng là đơn vị đong lường ngày xưa, mười hợp là một thăng. Mỗi thăng
bằng 316 tấc khối tức là 10305688 công thăng. Lối đong lường như xưa kia
bắt chước người Tàu. Ruộng công có hai thứ, mỗi thứ phân làm ba hạng. A
– Một thứ gọi là quốc khổ: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng
thóc, hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch, hạng ba mỗi mẫu 3 thạch. B – Một thứ gọi
là thác điền: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thóc; hạng nhì ba mẫu
lấy một thạch; hạng ba bốn mẫu lấy một thạch.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.