đoạn này nhà Lê trở về cố đô, còn con cháu nhà Mạc bị phiêu bạt khỏi miền
Trung xứ Bắc nhưng vẫn không thoái chí.
Năm sau, tông thất nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn lại tôn lập con Mạc Kính
Điển là Mạc Kính Cung giữ châu Yên Bắc ở đất Lạng Sơn làm căn cứ
nhưng chẳng bao lâu lại bị Thái úy Hoàng Đình Ái đuổi sang Long Châu.
Nấn ná tại đây được ít tháng, Mạc Ngọc Liễn lâm bệnh rồi trước khi chết để
thư lại cho Kính Cung khuyên đừng tranh giành với họ Trịnh nữa: “Nay nhà
Lê lại nổi lên được, đó là việc trời định, dân có tội gì mà khổ mãi vì chiến
tranh? Nên đành phận mình ở nước ngoài, còn hơn là ganh nhau lại rước
người Tàu sang, làm hại cho dân nước”.
Lời khuyến cao tốt đẹp này không được con cháu họ Mạc nghe theo, nay
xưng vương nơi nay, mai dấy quân nơi khác khiến họ Trịnh cũng lao tâm
khổ trí khá nhiều. Và sỡ dĩ con cháu họ Mạc còn hoạt động, một phần cũng
bởi nhà Minh vẫn tiếp tục giúp đỡ mà dân chúng cũng chưa bỏ hẳn họ Mạc.
Theo Việt Nam Sử Lược trong đám con cháu họ Mạc còn có Mạc Kính
Chương xưng Tráng Vương ở Đông Triều, Quảng Yên bị Trịnh Tùng cử
trấn thủ Hải Dương là Phan Ngạn đánh dẹp và bắt được. Lại có Mạc Kính
Dụng (con Mạc Kính Chỉ) giữ đất Yên Bắc (Lạng Sơn) xưng Uy Vương sau
cũng thất bại.
Năm Kỷ Hợi (1599) vua Thế Tông qua đời, hoàng tử Duy Tân lên thay,
lấy hiệu Kính Tông. Năm sau, bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn
Khuê nổi loạn ở cửa Đại An (Nam Định) vì họ Trinhk kiêu hãnh và lộng
quyền thái quá. Về phía con cháu nhà Mạc cũng không ngừng chống đói,
phần bọn Bùi Văn Khuê cũng có một lực lượng đáng kể nên Trịnh Tùng lại
rút quân về Thanh Hóa.
Nhà Mạc trước tình thế này liền tôn thứ mẫu của Mạc Mậu Hợp là Bùi
Thị lên làm Quốc mẫu rồi đón Mạc Kính Cung ở Cao Bằng về, tiếp tục
chiến tranh ở trung châu Bắc Việt.