VIỆT SỬ TOÀN THƯ - Trang 60

Bấy giờ nước Sở trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn

hóa Hán Tộc bành trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho nước Việt
thường.

Thế rồi một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh

Chiết Giang đặt quốc hiệu là U Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà
người Tàu gọi là Câu Tiễn (496 tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành
cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn
Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp Hồ Tôn.

Câu Tiễn mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được

làm vua đất Lạc Việt ở tận phía Nam giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ
VII hoặc vì có lẽ là con trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía
bắc nên xưng như vậy để tỏ ý là chúa tể chính thức của dân Văn Lang.

Đến đời vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt có nước Âu

Việt. Vua nước này là Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai
nước làm một gọi là Âu Lạc. Vì hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ
cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái
An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả. Ấy là bằng chứng dân
Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn Lang, tức người Việt.

2 – Nước Văn Lang

Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ:

Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên).
Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì).
Phước Lộc: (Miền đồng bằng).
Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang).
Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam).
Vũ Ninh: (Bắc Ninh).
Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây).

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.