Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông).
Dương Tuyền: (Hải Dương).
Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng yên, Nam Định, Ninh Bình).
Cửu Chân: (Thanh Hóa).
Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh).
Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã).
Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy.
Bình Văn: Xét địa thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua
cuối cùng Hồng Bàng (thời Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã
lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của Văn Lang gồm hai tỉnh Nghệ An, hà
Tĩnh ngày nay.
Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh
Hồ Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn
(Chiêm Thành), Phía Đông giáp Nam Hải, là cương vực cổ xưa của toàn thế
gia đình Bách Việt chúng tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân
Giao Chỉ sinh tụ ở Nam Bộ Trung Quốc tại lưu vực sông Dương Tử, rồi tổ
tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối
này, địa bàn của chúng ta quả gồm có đúng 15 bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai
lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về vấn đề cương giới sau này
của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang)
hơi giống nhau. Đây không phải là điều ức đoán bởi sách chép nhầm thật.
Quyển Thông Điển (quyển 181 25b) chép: Phong Châu là nước Văn Lang
đời xưa (Cỗ này viết chữu lãng “lương” bên chữ nguyệt và cho rằng có
sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói quả
quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa
phận huyện Tân Xuyên bấy giờ có khe nước Dạ Lang và đây là địa bàn của
nước Miêu Tử.
Nước này ăn qua một phần quảng Tây và Quý Châu, phía tây giáp La La
(Lô Lô) gọi là Điền ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc
Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về Hán từ năm III trước T.C. Sau quận ấy chia