đời mới được ở lại nơi đó, còn phải trở về sinh quán làm ăn. Những người
này được lĩnh hay phải lĩnh ruộng đất để cầy cấy, không được từ chối. Các
xã trưởng, thôn trưởng phải xem lại sổ đinh và điền thực sự có bao nhiêu.
Hai thứ sổ sách này phải trình các viên phân suất, phân tri ở huyện đệ lên
triều đình xét, rồi quan sẽ đến khám lại cho việc bổ thuế được công bằng.
Nếu xã nào không cương quyết áp dụng lệnh hồi cư và thể lệ cư ngụ đều
bị nghiêm trị. Nếu xã nào để ruộng hoang đến hạn mà chưa khai khẩn thì
chức dịch phải chịu trách nhiệm nghĩa là chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà
nộp gấp bội.
Ruông tư khi đã sáp nhập vào hạng công điền thì thuế tính theo ngạch
công điền. Các mệnh lệnh trên đây xét ra chỉ có mục đích đem lưu dân về
làng cũ, khuyến khích và thúc đẩy các nông gia cầy cấy để xây nền thịnh
vượng chung cho quốc gia mà thôi. Ruộng tư và ruộng công bấy giờ được
chia làm 3 hạng để chịu riêng mỗi hạng một thứ thuế.
Công điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 150 bát thóc
Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 80 bát thóc
Hạng ba mỗi mẫu nộp: 50 bát thóc
Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng
kẽm về thuế khoán kho. (mỗi bát nói đây độ nửa lít).
Tư điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 40 bát thóc
Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 30 bát thóc
Hạng ba mỗi mẫu nộp: 20 bát thóc