biết “bế quan tỏa cảng”, các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn làm
gì mà không mất nước.
Đặt quốc đô ở Phú Xuân là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít về
phương diện quân sự nơi này là một vị trí chiến lược bất lợi về cả thủy lẫn
bộ. Trái lại Bắc Hà là cội rễ của dân tộc, nói gần là từ hai chục thế kỷ trở về
đây ruộng đất phù nhiêu, dân cư đông đảo, anh hùng hào kiệt đời nào cũng
sẵn chống xâm lăng nhiều phen như trúc chẻ, ngói tan. Vậy mà vua Gia
Long bỏ thật là uổng. Phải chăng Gia Long đã e ngại những uy tín còn xót
lại của hai họ Lê Trịnh, nhưng nếu đủ tài thi thố ân suy thì mình là thái
dương mà các triều đại đã qua chỉ là những ngọn lửa tàn, đâu đáng sợ! Sau
này Bắc Hà ly loạn liên miên, lòng dân khảng tảng vì triều đình ở quá xa rồi
50 năm sau giặc Pháp tiến vào nội địa của ta, hàng vạn quân của Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết không chống nổi mấy chiếc tàu,
vài trăm lính của Francis Garnier, H. Rivière và De Courcy. Đấy chẳng là
sự vụng tính của vua Gia Long vì đã bỏ gốc lấy ngọn đó sao?
Còn về các qui mô lập quốc, ta thấy vua Gia Long cũng làm đủ mọi
việc, tỏ được sự siêng năng, cần mẫn nhưng không có gì đặc biệt hơn các
triều đại trước.
Thế Tổ mất năm Kỷ Mão (1819) ở ngôi được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu
hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.