C) Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tang công,
nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần.
Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nảy nở mỗi
ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám
nhòm ngó vào.
Những vụ phiến loạn quan trọng đánh kể là vụ Phan Bá Vành khởi sự ở
Nam Đinh, Lê Duy Lương ở Ninh Bình và Nông Văn Vân ở Tuyên Quang
(vụ Phan Bá Vành xảy vào năm 1826 đã làm cho quan quân của triều đình
tổn hại rất nhiều, đến năm 1827 Nguyễn Công Trứ lúc đó làm Tham Biện
được cử đi dẹp mới yên). Vụ Lê Duy Lương phát sinh vào 1832, tức là năm
Minh Mệnh XIII ở Ninh Bình. Lê Duy Lương là con cháu nhà Lê cũng dấy
động với các thổ tù là Quách Tất Công, Quách Tất Tế và Đinh Thế Đức…
Vua Thánh Tổ huy động Tổng Đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra
Ninh Bình cùng với Tổng Đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh,
sau vài tháng Lê Duy Lương bị bắt giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê
bị đày ra Quảng Nam, Bình Định. Biên pháp này tỏ rằng chính sách “Phù
Lê” đã chấm dứt.
Vụ Nông Văn Vân và Lê Văn Khôi
Việc Lê Duy Lương ngoài Bắc Hà chưa yên hẳn thì trong Nam Việt bấy
giờ có Lê Văn Khôi cũng chống lại triều đình. Vì Khôi là người Bắc và có
anh em họ hàng ở Tuyên Quang nên có lệnh cho bắt các thân nhân của
Khôi. Nông Văn Vân là anh vợ Khôi và là Tri Châu Bảo Lạc hồi đó hoảng
sợ liền chiêu tập đồ đảng nổi lên cướp phá Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao
Bằng và Lạng Sơn từ tháng 7 năm 1833 cho đến tháng 3 năm 1835 làm
quan quân đã tổn phí rất nhiều. Dự vào việc tiểu trừ Nông Văn Vân có Sơn-
Hưng-Tuyên Tổng Đốc Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Quân Vụ, Hải
An Tổng Đốc là Nguyễn Công Trứ làm Tham Tán và Ninh Thái Tổng Đốc
Nguyễn Đình Phổ. Các tỉnh Thượng du hồi đó bị quân giặc vây hãm kịch