không ngừng, sau này Pháp chiems được nước Việt Nam (cuối thế kỷ XIX)
đạo Thiên Chúa mới chấm dứt được những trang thảm sử.
8 – Bàn Về Vua Thánh Tổ
Vua Thánh Tổ mất năm Canh Tý (1840), thọ được 50 tuổi, ở ngôi được
21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân hoàng đế.
Ngài là một ông vua biết chăm nom việc nước, bên trong sửa sang được
các việc chính trị, quan chế, học hành, khoa cử, phong tục, thuế má, võ bị
khiến trong nước có nền nếp chỉnh tề. Bên ngoài nhà vua và triều đình đánh
Tiêm, dẹp Lào, thu phục được nhiều bộ lạc, gây được nhiều uy thế và cho
quốc giá nhưng không có sáng kiến nên việc canh cải không có gì đặc biệt
lắm. Và xét cái căn bản của giai tầng trí thức đời đó, học chỉ vụ từ chương,
cử nghiệp thì cũng khó mà có những nhân tài xuất sắc, lỗi lạc để làm những
việc kinh bang, tế thế cho nhân dân được nhờ.
Tuy nhiên người ta không thể không quy trách nhiệm cho Ngài về các
vụ loạn ly đã xảy ra ở Bắc Hà, Nam Hà và Chân Lạp do quan lại tham
nhũng gây nên, đáng lẽ ở những miền xa xoi này nhà vua phải lựa đặt
những cán bộ ưu tú, biết lấy ân làm uy, khéo léo vỗ về dân chúng, bởi từ lâu
họ đã thiếu cảm tình với tân triều. Việc bảo hộ Chân Lạp rõ rệt kém chính
trị là đi đến chỗ quá ngược đãi người bản xứ, khiến Tiêm La lợi dụng nhược
điểm này kết hợp cùng dân Miên đánh ta bật ra khỏi Trấn Tây thành. Việc
Lê Văn Khôi tuyên bố lập con Hoàng Tử Cảnh để có chính nghĩa hoàn toàn
là chuyện vu vơ mà nhà vua lại nỡ giết cả chị dâu góa cùng cháu nhỏ thì
thật là quá lo cho cái ngai vàng của mình mà xả tình cốt nhục[6]. Đến vụ án
Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng đáng phàn nàn bởi khi sống đã không làm
tội (mà họ cũng chẳng có tội gì đáng kể) đến khi họ chết lại đem ra hành hạ
nắm xương khô, thật là bày một chuyện cười cho hậu thế.
Còn về việc cấm đạo, giết đạo thiết tưởng cũng nên rộng xét cho nhà
vua, vì Thiên Chúa Giáo bấy giờ quá mới đối với dân ta, lại có nhiều nghi