hình, kiểm điểm lại lực lượng, duyệt lại chương trình và định kế hoạch bạo
động.
Xét về lực lượng, đại hội thấy rằng thực lực cũng tạm đủ. Các tỉnh hầu
hết đều có cơ sở vững chắc, lực lượng trung kiên, lại thêm ở Thừa Thiên có
lính khố vàng, lính khố xanh, lính Tây do quan tư người Đức chỉ huy ở
Mang Cá và một đội lính mới tuyển ước chừng một ngàn người chịu ảnh
hưởng của cách mạng. Thêm vào đó có một số quan lại, viên chức và nhân
dân chung quanh Hế và miền quê tham gia. Quảng Trị chỉ có đội lính khố
xanh do các ông Quản Thiện, Quản Nguyên chỉ huy, tổ chức về dân chúng
thì đã có ông Khóa Bảo cầm đầu. Quảng Bình chỉ có vài ba đồng chí. Các
tỉnh miền Nam lực lượng chẳng được là bao. Kế hoạch khởi nghĩa đại lược
như sau:
Đại hội tính rộng cả đường tiến thoái nếu chẳng may thất bại hoặc gặp
sự khó khăn, các tỉnh phải tiếp ứng cho nhau. Việc sắp đặt như vậy đáng kể
là chu đáo và được nghiên cứu rất tỉ mì. Rồi đại hội định khởi sự vào ngày
mồng 1 tháng 4 âm lịch (tháng 5 năm 1916). Vì tình riêng, ngày 30, viên cai
khố xanh có chân trong đảng tên là Võ Cử đóng ở đồn Quảng Ngãi bị đổi đi
Đức Phổ. Trước khi lên đường, Cử có dặn với người em họ là Trung làm
lính giản ở dinh ông Án nên về nhà đừng lại dinh. Trung không hiểu, văn
hỏi, vì thương em, Cử đành nói sự thật, Trung vâng lời, chiều hôm ấy đến
xin phép viên Án sát Phạm Liên.
Thấy sắc mặt Trung khác thường và điệu bộ khả nghi, Liên liền gạn hỏi,
Trung bèn thưa thật. Trung liền bị đưa qua tòa Sứ. Lập tức, Cử bị bắt đưa về
tra hỏi, Cử phải khai Thiểm và Cẩn. Cẩn làm tùy phái tòa sứ được đảng
giao cho trọng trách đầu độc viên Công sứ. Còn Thiểm, cai lính khố xanh
được đảng cử làm giám binh, đứng đầu việc chỉ huy trại lính. Thiển và Cẩn
bị bắt, tra khảo nhưng không chịu khai ai cả.
Chiều mồng một, binh lính Việt Nam bị lột khí giới và bị tống lao hết.
Thành phố Huế thiết quân luật, lính Pháp đi t uần xét các ngả đường. Đến