mà Đông Dương ngân hàng đã thẳng tay bóp chết hồi kinh tế khủng hoảng
năm 1930. Nhưng số người ít ỏi này riêng đối với Hoa kiều, Ấn kiều cũng
chỉ là những cái bóng qua, kể chi đối với các nhà thực dân Pháp.
Về ruộng đất, những chỗ tốt lành người Pháp cũng chiếm hết, ngay cả
những nơi người dân quê đã khai thác thuộc công điền hay công thổ. Năm
1890 ruộng đất người Pháp khai thác trên toàn cõi Đông Dương là 11.390
mẫu tây, tới 1939 diện tích này đã lên đến 1 triệu mẫu, riêng ở Nam kỳ tới
610.000 mẫu, theo sự kêu cứu của Piere Naville trong cuốn La Guerre du
Việt Nam. Rồi những người dân quê hiền lành của ta đã bị cưỡng bách đi
làm phu phen, cu ly ở các đồn điền, các xí nghiệp có đi mà chẳng có về,
nhất là các người đi làm cho các đồn điền cao su đất đỏ, mỏ than Hongay,
thường bị đánh đập dày vò lại thêm ma thiêng, nước độc chết vô kể.
Trong các ngành hành chánh cũng như trong quân đội, người Việt chỉ
được giữ những chức đạ đẳng và một số người được làm quan Phủ, Huyện
cũng không được người Pháp trọng vọng. Ta cũng nên biết rằng phần nhiều
quan lại thời Pháp không thuộc về những danh gia, tử đệ. Vì cuối thế kỷ
XIX nước ta bại trận, sĩ phu ta có phong trào bất cộng tác với địch, các nhà
nho ái quốc đều cấm con cháu học cái thứ “chữ như con giun của đám
người man di, mắt xanh lè”. Vậy nên chỉ có những người ít liêm sỉ mới
nhảy ra xu mị tân trào, do đó văn chương Việt Nam đã phản ảnh được nhiều
sự kiện rất hài hước qua các câu thơ dưới đây:
Đem thân khoa giáp làm tôi Pháp
Lầm bởi nhà nho học chữ Tàu…
Con nên khoa giáp, cha mòn gối
Em được công danh, chị…
Trong nhà bà đầm cong đít vịt