cuộc đang ào ạt thì tướng De Latter bị tử thương ở Hòa Bình vào ngày 11-
1-1952. Tướng Salan lên thay quyền Tổng tư lệnh. Xét ra, cho tới năm
1952, Pháp quân luôn luôn lâm vào thế bị động, lo phòng thủ đã đủ mệt rồi.
Chính đại tướng Navarre người kế vị Salan vào mùa thu năm 1953 đã phải
công nhận rằng quân Pháp lúc này hết lạc quan, trên khắp các mặt trện đều
có sự thiếu thốn cán bộ. Thế là Pháp bị ba thứ khủng hoảng: khủng hoảng
tinh thần, khủng hoảng vật chất, khủng hoảng cán bộ, mặc dù Pháp được
Mỹ tiếp tục viện trợ đầy đủ.
Đến tướng Navarre, Pháp quân đổi chiến Pháp, sau những kinh nghiệm
chua cay từ năm 1945 – 1953, xét rằng không thể áp dụng được lối đánh cổ
điển và cũng không thể chấp nhận được lối đánh tối tân do tình trạng đặc
biệt của chiến trường Việt Nam lúc này. Cho tới bấy giờ, Pháp đã điêu đứng
về giao thông chiến, du kích chiến, lại còn đau khổ về cả lối đánh mìn, đánh
giáp lá cà bằng mã tấu (bạch binh), lối độn thổ, độn thủy và lối đánh chông
rất ác độc của Việt Minh. Xét ra, nếu Việt Nam kém hậu thuẫn của nhân
dân, thì họ khó mà dùng được một cách hiệu nghiệm các chiến thuật kể
trên, bởi nếu nhân dân tố cáo, họ sẽ thất bại trông thấy. Nhưng Pháp, quân
đi tới đâu tàn phá đến đấy, gieo căm thù tang tóc khắp nơi. Pháp quân lại là
quân xâm lược, thì cũng đủ là kẻ địch của nhân dân rồi.
Navarre liền thi hành một chủ trương mới: 1) Triệt bỏ các đồn lẻ loi để
khỏi bị Việt Minh phá được, làm lợi khí về mặt tuyên truyền. 2) Giành lại
quyền chủ động chiến trường bằng cách tìm địch mà đánh, bắt địch ứng
chiến. 3) Hành binh bất thường, tránh sự dự liệu của địch quân.
Rồi ngày 18-7-1853, Navarre mở cuộc hành quân “Con én” vào Lạng
Sơn và cuộc hành binh “Camarque” vào Quảng Trị phá hủy được một số
dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở Lạng Sơn, Pháp diệt được hai tiểu
đoàn, một số căn cứ của địch trong khu tam giác ở dãy phố Buồn Thiu là
mối hăm dọa trên quốc lộ số 1 (Trung Việt)