Đạo giáo suy sụp dần, chia ra phái Nam, phái Bắc, mỗi phái truyền đạo theo
một thuyết riêng, đó là điều tai hại cho Đạo.
Đến nhà Kim, nhà Nguyên vào chiếm Trung Nguyên, đạo giáo lại chia
rẽ phen nữa, lần này thành ba phái: một là Chân Đại Đạo Giáo do Lưu Đức
Nhân triều Kim đứng ra, hai là Thái Nhất Giáo do người cháu đời thứ 36
của Trương Đạo Lăng là Trương Tông Diễn vâng lệnh vua Thế Tổ nhà
Nguyên quản lĩnh Đạo giáo miền Giang Nam. Ba là Thát Nhất Tam Nguyên
do Tiêu Bảo Chân cũng dưới nhà Nguyên sáng lập. Dầu vậy, dưới đời
Nguyên, đạo giáo có nhiều phen thất bại: dưới đời Hiến Tông bị thế lực
Phật Giáo lấn át –dưới đời Thế Tổ lại có hồi bị cấm chế nữa. Mãi cho đến
đời vua Thái Tổ, nhà Minh, khoảng năm Hồng Vũ thứ 10 con cháu Trương
Đạo Lăng (tức Trương thiền sư) mới phục hồi được địa vị trước (1377) nhất
là dưới triều Minh Thế Tông năm Gia Tĩnh (1522 – 1566) nhà vua rất tin
dùng đạo sĩ để học thuật trường sinh. Triệu Nguyên Tiết được phong làm
Thái Nhất chân nhân thường nói chuyện cho vua nghe về huyền lý của
Đạo.Thiệu giải thích như sau:
“Chân giáo chỉ thu vào trong một chữ tĩnh. Tĩnh sinh trí, trí sinh sáng,
sáng sinh yên. Động sinh mờ, mờ thì tối, tối thì loạn. Đáng thanh quân trị
thiên hạ quý vô vi. Chính nho gia cũng vô vi. Khổng Tử có nói: “Vô vi mà
trí là vua Thuần chăng! Nào có làm gì đâu, chỉ tự cung kính ngồi ngoảnh về
phía Nam mà thôi”.
Sang đời nhà Thanh, thế lực của đạo giáo dầu suy lạc và không được
triều đình tôn trọng cho tới khi khoa học Tây Phương tràn vào Trung Quốc
như ánh sáng mặt trời soi vào đám ương mai mù mịt. Đạo giáo bị lung lay
đến nền tảng vì những phương thuật mê tín hơn nghìn năm để lại chống sao
nổi những kỳ diệu của nền văn minh cơ giới rất đắc lực trong việc phụng sự
nhân sinh. Nhân dân dần dần hết tin đạo rồi Dân Quốc cách mệnh nổi lên
với các tư tưởng cải cách, duy tân, đạo giáo tan rã nhường không còn gì