Nếu rủng rỉnh một chút, tôi đã không chui vào cái xó hôi hám này.
Lão Sam buộc tôi phải ký vào bản hợp đồng thuê nhà với những điều
khoản rắc rối đến mơ hồ. Tôi đã bỏ ra gần ba ngày để dọn dẹp, lau chùi
lại tất cả mọi thứ, giặt cả thảm lót sàn nhưng không tài nào xua được
hết mùi hôi.
Cũng trong khu nhà ổ chuột này, tôi quen một người Mỹ trắng.
Anh tên William Ford, thường gọi là Bill.
***
Bill cao đến một mét tám, người gầy gò, trạc khoảng bốn mươi
tuổi. Anh ăn vận lếch thếch, râu tóc bù xù, dáng vẻ như kẻ mặc kệ đời.
Đôi mắt sâu với cái nhìn buồn rầu, mệt mỏi. Nghe kể, Bill từng đi lính
ở Việt Nam.
Tôi biết Bill ngay trong tuần đầu tiên ở khu chung cư. Vào một
đêm, lúc đang chuẩn bị đi ngủ tôi bỗng nghe tiếng động ngoài hành
lang. Hình như có ai đó vừa ngã. Lẽ ra tôi nên lo việc của mình, thay vì
thế tôi lại hé cửa nhìn ra. Bên dãy phòng đối diện, một người đàn ông
vận bộ đồ lính nhàu nát, râu tóc rối bời, đang ngồi bệt trên lối đi. Nhìn
khuôn mặt đờ đẫn, tôi biết gã đã nốc đến bí tỉ. Thấy tôi, gã than:
“Tao không mở được cửa. Mày giúp giùm. Làm ơn!”
Tôi nhìn vào cánh cửa phòng đóng im ỉm bên cạnh gã, cất giọng
bực bội:
“Đây là phòng của mày à?”
“Chính xác!”
Vừa nói gã vừa ném cho tôi một chùm chìa khóa dễ đến mười
chiếc với đủ kiểu loại, kích cỡ. “Chiếc màu xám ấy.” - Gã lè nhè. Hai
tay chống xuống sàn nhà, gã cố đứng lên trên đôi chân mềm oặt của
mình, rồi cứ thế lê từng bước xiêu quẹo qua khung cửa. Gã để nguyên
quần áo, giày vớ, ném mình xuống chiếc giường. “Good night!” - Gã
lầm bầm trong miệng như thể nói với chính mình. Mắt nhắm nghiền.