Kể từ giây phút ấy, thế giới bên ngoài hình như không còn tồn tại với
gã nữa.
Khi quay lại phòng mình, tôi bỗng chạm mặt lão Sam nơi hành
lang. Vừa thấy tôi, lão rít lên:
“Mày không cần phải giúp hắn. Đêm nào mà hắn chẳng thế. Tao
chỉ mong thằng khốn ấy biến đi cho khuất mắt. Đồ nát rượu!...”
Lúc bước xuống cầu thang, lão vỗ vai tôi theo kiểu mấy ông bố
thường làm khi khuyên răn đứa con trai hư hỏng của mình. “Mày còn
trẻ, phải lo học hành, kiếm việc làm, đừng có mà đàn đúm say sưa với
mớ giẻ rách này!”
Mấy hôm sau, Bill rủ tôi đi bar. Thấy tôi có ý thoái thác, anh nài
nỉ:
“Tao muốn mời mày uống một ly. Đó là điều tối thiểu tao có thể
làm để cảm ơn mày!”
Tôi theo Bill đến quán. Quán nằm ở góc đường Winthrop với
Argyle, cách khu nhà trọ chừng năm phút đi bộ. Đám đệ tử lưu linh ở
đây thuộc đủ sắc dân, đủ thứ giới tính. Quán khá rộng. Những chiếc
ghế bọc nệm da đen bóng được kê dọc theo quầy rượu sát tường, chạy
dài đến phía bên kia vách, nơi qua khung kính có thể nhìn thấy xe cộ
lẫn khách bộ hành xuôi ngược trên đường phố. Phía bức tường đối diện
với cửa ra vào treo một chiếc tivi khổ lớn, đang phát hình chương trình
thể thao trong ngày. Trên quầy có cả hàng trăm thức uống, từ loại rượu
đắt tiền như Louis XIII giá tới cả nghìn, đến beer Budweiser chỉ 1
dollar một chai. Mấy chiếc đèn màu từ trên trần nhà hắt xuống những
vệt sáng nhòa nhạt, uể oải. Bill và tôi chọn hai chiếc ghế trong một góc
khuất để ngồi. Bill gọi rượu whisky. Tôi kêu beer Miller Lite. Chúng
tôi uống chay, không có mồi.
Tay chủ quán bar nhìn Bill, hất đầu như chào. Hắn có dáng dấp
của kẻ anh chị. Môi ngậm rịt điếu xì gà lớn bằng ngón tay. Tóc cắt
ngắn. Râu quai nón được tỉa xén một cách cầu kỳ. Bắp thịt cánh tay
vồng lên, cuồn cuộn dưới lớp áo như vận động viên cử tạ.