cho là tất nhiên phải có.
Dù để hết tinh thần tìm những cây vàng ngọc, tôi cũng nhìn thấy những
khách đi đường gặp chúng tôi mà chẳng để mắt tới chúng tôi, chắc hẳn họ
vội vã hoặc họ quen nhìn những cảnh khổ hơn cảnh thầy trò tôi.
Tôi chẳng chắc dạ chút nào!
Chúng tôi sẽ làm gì ở Ba-Lê, nhất là đang ở trong cảnh cùng khốn này?
Đó là một câu hỏi rất buồn mà nó cứ lẩn quất trong óc tôi suốt quãng
đường trường.
Tôi định hỏi thầy tôi song lại thôi vì thấy thầy tôi ủ rũ và nói rất ít.
Rồi có một hôm, ông Vỹ-Tiên thân mật ngồi cạnh tôi, trông con mắt của
ông, tôi đoán sắp được thỏa mãn những điều băn khoăn trong lòng tôi.
Đó là một buổi sáng, sau khi ngủ nhờ trong một cái trại thuộc một làng to,
theo chiếc biển xanh cắm ở cạnh đường thì gọi là làng Boissy, chúng tôi
dậy sớm và lên đường vào lúc rạng đông. Khi đi hết địa phận làng này,
đứng trên một cái dốc, chúng tôi nhìn về phía trước mặt, xa xa có một đám
khói đen bay là là trên một thành phố lớn.
Tôi cố phân biệt những mái lâu đài, những gác chuông, những ngọn tháp
trong đám khói đen lẫn sương mù ấy, chợt thầy tôi đi chậm lại, đợi tôi đến
gần và nói như là tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở:
- Thế là đời chúng ta thay đổi hẳn. Trong 4 giờ nữa chúng ta đến Ba-Lê.
- A! Thế Ba-Lê ở trước mặt kia à?
- Phải.
Chợt một tia sáng trên trời chớp xuống, tôi nhìn thấy lấp lánh như vàng.
Nhất định tôi không lầm. Tôi sắp được xem những cây cối bằng vàng, bằng
ngọc.
Thầy tôi nói tiếp:
- Tới Ba-Lê thầy trò ta phải lìa nhau.
Vụt tối lại. Cây cối vàng ngọc biến hết.
Tôi quay lại nhìn thầy tôi, thầy tôi cũng nhìn tôi. Thấy sắc mặt tôi xám lại,
môi tôi run run; thầy tôi biết có mối xúc động lớn trong lòng tôi, nên bảo
tôi:
- Ta biết con buồn lắm. Thầy đây cũng khổ tâm.