thuồng. Anh nói:
- Tôi mong bà Mỹ-Lưu vẫn còn người đầu bếp cũ, khéo làm những bánh
mứt, bánh nhân hạt mơ.
- Chưa bao giờ anh ăn các thứ đó à?
- Tôi đã ăn những bánh khoai. Tôi chưa từng ăn các bánh mứt. Nhưng tôi
đã trông thấy. Có phải những thứ bánh vàng vàng có điểm những hạt trăng
trắng?
- Hạt hạnh nhân.
- Ô!
Và Mã-Tư há hốc mồm như muốn nuốt cả tấm bánh vào miệng.
Từ Gioa-Nhi đến Ôt-Xe (Auxerre); sông Ôn lượn quanh co. Chúng tôi đi
đường tắt nên lợi thì giờ. Nhưng đến Ôt-Xe thì Thiên-Nga đã sang sông
Niên và đi nhanh hơn vì nước sông yên lặng. Trên sông này thuyền bè ít đi
lại, đến mỗi cửa “đập”, chúng tôi lại hỏi, ai ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền
lạ kiểu ấy.
Không những người ta tả rõ thuyền Thiên-Nga, người ta còn kể trong
thuyền có một bà người Anh và một cậu con trai nằm ở cái giường trên
boong, dưới cái hiên có hoa có lá và thỉnh thoảng cậu ta ngồi dậy trông ra
ngoài. Chúng tôi biết cậu An-Tuyên đã đỡ rồi.
Chúng tôi tới gần Mộc-Văn (Đơ-Di). Còn hai ngày nữa. Còn một ngày.
Còn vài giờ nữa thôi. Sau cùng, chúng tôi nhìn thấy cánh rừng mà chúng
tôi đã dạo vào mùa thu trước. Rồi chúng tôi nhìn thấy bờ đập cùng nhà bà
Cát-Tường.
Không ai bảo ai, Mã-Tư và tôi cùng rảo bước: chúng tôi không đi nữa mà
chúng tôi chạy. Lãnh-Nhi chạy trước chúng tôi. Nó báo tin cho Lệ-Hoa biết
để ra đón chúng tôi. Nhưng không có Lệ-Hoa nào ra đón và Lãnh-Nhi thì
cúp đuôi chạy trở lại như người bị đuổi đánh.
Chúng tôi liền đứng lại và tự hỏi thế là nghĩa lý gì? Có việc gì xảy ra?
Nhưng chẳng ai nói ra và lại tiến bước.
Lãnh-Nhi tiu nghỉu đã về tới chân chúng tôi. Một người đàn ông đang kéo
cánh cửa “đập”, chúng tôi nhìn kỹ, không phải là ông chú của Lệ-Hoa.
Chúng tôi vào tận nhà. Một người đàn bà mà chúng tôi không quen, đang đi