người lái thuyền, những người chận sào, những người ở bến, biết chắc chắn
thuyền Thiên-Nga đã sang Thụy-sĩ: chúng tôi lại ngược theo sông Rôn.
Mã-Tư hỏi:
- Ở Thụy-sĩ sang Ý được, đó lại là cái may nữa. Cứ theo mãi bà Mỹ-Lưu,
cái ngày chúng ta về đến Lục-Ca. Em Tuyết-Nga sẽ sung sướng biết
nhường nào!
Thương cho anh Mã-Tư thân mến và khốn nạn của tôi! Anh đã giúp tôi đi
tìm những người thân yêu của tôi, tôi chưa làm gì để anh được gần em gái
anh!
Đến Ly-Ông, chúng tôi đi nhanh hơn thuyền vì nước sông chảy xiết, thuyền
bè khó ngược hơn là ở sông Xen. Tới Quy-Lô (Culoz), tính ra thời gian
Thiên-Nga đi trước chúng tôi chỉ còn có sáu tuần lễ.
Giở bản đồ ra xem. Chúng tôi tin rằng có thể đuổi kịp Thiên-Nga trước khi
tới hồ Giơ-Neo (Genève), Thiên-Nga phải đưa bà Mỹ-Lưu đến tận Thụy-sĩ.
Yên trí thế, vì chúng tôi không có bản đồ nước này.
Chúng tôi đến tỉnh Sét-Sen, một thành phố ở hai bên bờ sông và nối liền
bằng một cầu treo. Chúng tôi ra bến xem thì ủa! Lạ quá! Có phải kia là
thuyền Thiên-Nga không? Chúng tôi chạy đến gần. Chính hình dáng nó,
chính nó. Nhưng có vẻ là một chiếc thuyền bỏ không, buộc vào cạnh một
cái sàn có mái che. Cửa phòng khóa kín, hiên thuyền không có hoa leo nữa.
- Sao lại thế? Có việc gì xẩy ra cho An-Tuyên chăng?
Chúng tôi đứng lại, trái tim dồn dập đến nghẹn thở.
Nhưng đứng lại thì hèn quá. Phải tiến lên. Phải hỏi han xem sao? Gặp một
người đàn ông, chúng tôi hỏi tin. Người đó, chính là người giữ việc coi
thuyền, cho chúng tôi biết:
“Bà khách người Anh đi thuyền với hai con, một cậu con trai liệt và một cô
gái câm, hiện đang ở Thụy-sĩ. Bà ta phải để thuyền lại đây vì không thể
ngược sông Rôn được nữa. Bà ta cùng hai con phải đi xe ngựa trước với
một người đàn bà giúp việc. Còn các đầy tớ chở đồ đạc theo sau. Đến mùa
thu, bà ta mới về đây lấy thuyền rồi theo sông Rôn xuống miền nam nước
Pháp và ở đó cho hết mùa đông.”
Bây giờ, chúng tôi mới thở được.